Theo lãnh đạo Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam, nhu cầu vàng nguyên liệu của các doanh nghiệp sản xuất vàng nữ trang khoảng 20 tấn/năm do xu hướng tiêu dùng vàng dịch chuyển từ mục đích tích trữ sang thời trang, làm đẹp.
Tốc độ phát triển thị trường vàng trang sức tại Việt Nam từ 7 - 11% mỗi năm là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Đặc biệt, các phân khúc sản phẩm trung và cao cấp còn nhiều dư địa tăng trưởng trong những năm tới.
Theo ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam (VGTA), thời gian qua, Hiệp hội đã khảo sát, tổ chức nhiều hội thảo, đồng thời cũng đã có cuộc làm việc với Hội đồng Vàng thế giới.
Nhu cầu vàng nguyên liệu của các doanh nghiệp sản xuất vàng trang sức khoảng 20 tấn/năm.
“Theo tổng kết của Hội đồng Vàng thế giới thì nhu cầu thực tế có những thời gian Việt Nam nhập cao nhất 60 tấn vàng/năm, còn nhu cầu hiện nay (không tính để sản xuất vàng miếng) ít nhất cũng cần 20 tấn vàng nhập khẩu mỗi năm. Nhưng từ năm 2012 đến nay, chúng ta không nhập khẩu một lượng vàng nào theo con đường chính thống. Bản thân các doanh nghiệp khi đang thực hiện việc sản xuất kinh doanh vàng trang sức có nhu cầu về vàng nguyên liệu cũng không biết mua ở đâu và mua trôi nổi trên thị trường sẽ rất là rủi ro về mặt pháp luật. Chính vì thế, khó tránh khỏi xu hướng buôn lậu và hậu quả là chảy máu ngoại tệ. Nhà nước khó kiểm soát hết được, đồng thời các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng trang sức cũng gặp rủi ro trong việc mua bán vàng nguyên liệu trôi nổi trên thị trường”, ông Hùng nói.
Bên cạnh đó, Phó Chủ tịch VGTA còn chỉ ra một thực tế là chúng ta đang làm một quy trình ngược, tức là mua vàng tiêu chuẩn quốc tế 9999 về sản xuất ở Việt Nam để nội địa hóa bằng vàng SJC. Nhưng khi có nhu cầu xuất khẩu vàng nguyên liệu ra nước ngoài thì vàng SJC đó lại không được công nhận là vàng tiêu chuẩn quốc tế mà phải coi như vàng nguyên liệu.
Mặt khác, khi giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới thì chúng ta xuất khẩu cũng không được. Bởi vì từ năm 2012 đến nay sau khi có Nghị định 24, việc xuất khẩu vàng có hàm lượng vàng dưới 90% không phải chịu thuế, còn trên 90% phải chịu thuế. Vừa rồi có thay đổi từ 95% trở lên mới chịu thuế xuất khẩu là 1%.
Đại diện VGTA cho rằng mức thuế 1% giá xuất khẩu vàng trang sức là chi phí rất lớn với các doanh nghiệp dẫn đến không thể xuất khẩu được, chưa nói tới việc giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới thì càng không thể xuất được.
"Chủ trương của Ngân hàng Nhà nước không khuyến khích người dân mua bán vàng miếng, tích trữ vàng miếng là rất đúng đắn và chúng ta cần phải bám sát theo chủ trương này để có biện pháp", ông Hùng nói.
Thanh Hoa