Trong bối thương mại toàn cầu cạnh tranh gay gắt, việc tận dụng hiệu quả các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) không còn là một lựa chọn mà đã trở thành mệnh lệnh cho tăng trưởng. Những con số "biết nói" cho thấy tỷ lệ tận dụng ưu đãi còn quá khiêm tốn so với tiềm năng, đòi hỏi những giải pháp thực chất, quyết liệt hơn để biến cơ hội trên giấy thành lợi thế cạnh tranh thực sự.
“Việt Nam có rất nhiều FTA, nhưng hiện tại chúng ta chưa thực sự tối ưu hết tất cả FTA này cho các mặt hàng và các mối quan hệ ở một số thị trường quan trọng như châu Á hoặc EU”, ông Sacha Dray, chuyên gia kinh tế của World Bank nhận định tại Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2026, khi gợi ý giải pháp giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu.
Nhận định của vị chuyên gia quốc tế đã một lần nữa xoáy vào một "nút thắt" trong thương mại quốc tế của Việt Nam mà chúng ta đã nhìn thấy, đã chỉ ra từ lâu, nhưng chưa thể tháo gỡ.
Rào cản từ quy tắc đến năng lực nội tại

Việt Nam đang có 17 FTA có hiệu lực thực thi, mang lại cơ hội lớn cho hàng hoá thâm nhập các thị trường.
Trước đó, hồi tháng 10, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế, Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế cũng đã nhắc đến vấn đề này tại phiên họp của Ban chỉ đạo liên ngành: “Việt Nam đã thành công trong thu hút đầu tư, thành công trong đàm phán ký kết các FTA, nhưng lợi ích Việt Nam được hưởng trong tiến trình hội nhập chưa được như kỳ vọng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nâng tầm quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế”.
Việt Nam nằm trong top đầu các quốc gia đang phát triển có số lượng FTA nhiều nhất. Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã có 20 FTA được ký kết và đàm phán. Trong đó, 17 FTA đã và đang thực thi với các nền kinh tế lớn trên thế giới, chiếm 90% GDP toàn cầu. Không thể không nhắc đến các “siêu FTA” Việt Nam tham gia với các thị trường rộng lớn như khu vực Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).
Sau 5 năm thực thi EVFTA, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU liên tục tăng, từ 48,9 tỷ USD lên gần 78 tỷ USD, ghi nhận mức tăng trưởng bình quân 10,1%/năm. Trong đó xuất khẩu sang thị trường EU tăng bình quân 11,7%, nhập khẩu từ thị trường EU tăng bình quân 6,1%.
Không thể phủ nhận những thành tựu quan trọng mà các FTA đã mang lại cho động lực xuất khẩu, cũng như việc thu hút đầu tư nước ngoài FDI. Nhưng song hành với đó là những con số khiêm tốn về khả năng tận dụng FTA; sự đối nghịch giữa quy mô, kỳ vọng thị trường và tỷ lệ tận dụng thực tế.
Bà Bùi Hoàng Yến, Đại diện Văn phòng Cục Xúc tiến thương mại phía Nam, Bộ Công Thương cho biết, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan FTA của doanh nghiệp trong nước mới đạt trung bình 30 - 40%. Dù một số thị trường truyền thống có tỷ lệ tận dụng cao như Ấn Độ (65,12%), Trung Quốc (41,84%), ASEAN (40,11%), nhưng tỷ lệ hàng hóa tận dụng ưu đãi ở các FTA thế hệ mới còn rất khiêm tốn, như RCEP mới đạt 1,83% và CPTPP đạt 8,84%.
Có nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp không đáp ứng điều kiện như tỷ lệ nội địa hoá còn thấp, phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu; chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, lao động, sở hữu trí tuệ, quy định thương mại…
Theo bà Đinh Thị Hương Giang, Giám đốc Tư vấn, Công ty Kiểm toán và tư vấn Grant Thornton Việt Nam các FTA buộc doanh nghiệp phải nâng cao chuẩn mực phát triển bền vững. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt gặp khó khăn do thiếu báo cáo tài chính minh bạch, hệ thống kế toán và dữ liệu chưa được số hóa, thiếu các chỉ số hiệu suất tài chính tiêu chuẩn quốc tế, các vấn đề về thuế và khả năng quản trị rủi ro tài chính còn yếu.
Xây dựng hệ sinh thái để biến cơ hội thành lợi thế
Trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, nhiều nước ban hành các chính sách thương mại mới, đặc biệt chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ sẽ tác động tới dòng chảy xuất nhập khẩu. Liên minh châu Âu cũng đang đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết FTA với nhiều đối tác khác, làm tăng áp lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam.
Trong bối cảnh này, bên cạnh việc tiếp tục tìm kiếm, mở rộng các đối tác FTA thì tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi FTA cho doanh nghiệp là giải pháp then chốt giúp hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng nông sản, thủy sản, dệt may, da giày… thâm nhập sâu hơn vào các thị trường, từ đó xuất khẩu Việt Nam bền vững hơn trước những bất ổn, áp lực.
Để tận dụng hiệu quả các ưu đãi từ hiệp định, các chuyên gia cho rằng doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động chuẩn bị và đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của các thị trường. Đặc biệt việc tuân thủ đầy đủ các quy tắc về xuất xứ hàng hóa không chỉ là yêu cầu bắt buộc mà còn là cơ hội để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và tiếp cận nguồn vốn tài chính với chi phí ưu đãi.
Như Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã nhận định, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam không thể chỉ đo đếm bằng sự mở cửa của nền kinh tế, số lượng FTA được ký kết, hay số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam, thậm chí không đo bằng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên hàng năm mà cần phụ thuộc vào năng lực nội tại của nền kinh tế đất nước, và sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Hiện Bộ Công Thương đang tập trung hoàn thành khởi động đàm phán 2 FTA giữa Việt Nam với Mercosur và Hội đồng hợp tác vùng Vịnh (GCC) trong quý IV/2025, đồng thời thúc đẩy sớm kết thúc đàm phán FTA giữa Việt Nam và Khối Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA) trong năm 2025.
Bộ cũng đã dự thảo đề án “Hệ sinh thái hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các FTA” và đang lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia độc lập trong nước và quốc tế. Đây là bước đi chiến lược nhằm thực hiện chỉ đạo của Chính phủ trong nâng cao năng lực hội nhập, tạo động lực mới cho thương mại và tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Kỳ vọng đề án sớm được trình Chính phủ phê duyệt, ban hành và đi vào thực tiễn hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả, thực chất.
.png)
Link gốc