Trong hơn 3 thập kỷ qua, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã và đang có những chuyển đổi mang tính chất căn bản, trong đó có sự chuyển đổi hình thức quản lý tập trung sang lâm nghiệp hộ gia đình. Trọng tâm của quá trình chuyển đổi này là nhiều diện tích đất rừng trước đây thuộc các lâm trường quốc doanh (nay là các công ty lâm nghiệp) đã được chuyển sang giao cho các hộ gia đình.
Sự chuyển dịch này đã giúp đạt được mục tiêu kép: cải thiện sinh kế, nâng cao thu nhập cho các hộ, thông qua việc tạo nguồn gỗ rừng trồng phục vụ ngành chế biến gỗ; đồng thời góp phần mở rộng diện tích rừng trồng, tăng độ che phủ rừng. Quá trình chuyển đổi không làm mất hoàn toàn hình thức quản lý lâm nghiệp Nhà nước.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hiện Việt Nam còn 169 công ty lâm nghiệp đang quản lý khoảng trên 1,4 triệu ha đất rừng. Các công ty này thuộc 35 đầu mối quản lý, bao gồm Bộ Quốc phòng, 30 địa phương cấp tỉnh, Tập đoàn Cao su, Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam, Tổng công ty cà phê, Tổng công ty giấy.
Tuy nhiên, tại Kết luận số 103-KL/TW ngày 2/12/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp đã nêu rõ: “Việc quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp còn yếu kém, lỏng lẻo, tùy tiện, số liệu thống kê không thực chất và không phản ánh được thực tế. Nhiều địa phương chưa hoàn thành việc đo đạc, lập bản đồ địa chính, giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Tình trạng sử dụng quỹ đất được Nhà nước giao để cho thuê, cho mượn, khoán trắng, liên doanh, liên kết không đúng quy định vẫn diễn ra phổ biến. Việc lấn chiếm, tranh chấp đất đai, mua bán hợp đồng giao khoán, mua đi bán lại nhiều lần… chưa được khắc phục và có phần gia tăng ở nhiều nơi. Vẫn còn tình trạng lợi dụng ranh giới không rõ ràng giữa các loại rừng để khai thác trái pháp luật”.
Báo cáo của Cục Lâm nghiệp năm 2024 cũng nêu rõ: “Các công ty lâm nghiệp quản lý và sử dụng đất với diện tích lớn, có nhiều vị trí thuận lợi nhưng không hiệu quả, trong khi người dân tại chỗ lại thiếu đất sản xuất, phải nhận khoán lại đất của công ty lâm nghiệp (nhiều trường hợp phải nhận thuê, khoán lại chính diện tích thuộc địa bàn cư trú, canh tác trước đây) và nhận khoán lại từ người nhận khoán của công ty lâm nghiệp. Trong khi đó, nhiều hộ dân khác lấn, chiếm đất hoặc được Nhà nước giao đất không phải thực hiện nghĩa vụ tài chính gì. Tình trạng thiếu đất sản xuất, đặc biệt trong nhóm hộ đồng bào dân tộc thiểu số và nhóm di dân tự do, là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc vi phạm các quy định về sử dụng đất".
NHIỀU ĐẤT CÀ PHÊ, CAO SU KHÓ ĐÁP ỨNG EUDR
TS.Tô Xuân Phúc, chuyên gia của Tổ chức Forest Trends, cho biết tại Việt Nam, các mặt hàng nông, lâm sản như gỗ, cà phê, cao su, tiêu được sản xuất trên đất nông nghiệp hiện nay chủ yếu phục vụ chế biến và xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ, EU ngày càng đưa ra những quy định chặt chẽ hơn về tính hợp pháp và bền vững đối với mặt hàng nông sản. Việc đáp ứng các yêu cầu hợp pháp và bền vững của thị trường xuất khẩu là bắt buộc.
Đặc biệt, Quy định chống mất rừng (EUDR) được EU ban hành năm 2024, kế hoạch sẽ áp dụng từ 1/1/2026. Như vậy, nhiều nông, lâm sản của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU sẽ bắt buộc phải tuân thủ quy định này.
Quy định EUDR yêu cầu 7 mặt hàng (trong đó có gỗ, cà phê, cao su) chỉ được phép nhập khẩu vào thị trường EU nếu: các hoạt động của chuỗi cung tuân thủ đầy đủ với các quy định pháp luật của quốc gia sản xuất; quá trình sản xuất các mặt hàng này không làm tổn hại đến nguồn tài nguyên rừng; nguồn đất sản xuất phải có tính pháp lý rõ ràng, với các hoạt động sản xuất tuân thủ chặt chẽ với quy định về sử dụng đất. Ngoài ra, còn có các yêu cầu như kiểm soát chặt chẽ chuỗi cung từ khâu sản xuất tới nhập khẩu, tuân thủ các quy định về sử dụng đất của quốc gia sản xuất, sử dụng lao động, các quy định về môi trường…
Để đáp ứng yêu cầu của EUDR, người sản xuất cần đưa ra các bằng chứng rõ ràng rằng đất sản xuất không phải là các khu rừng đã chuyển đổi sau mốc thời gian EUDR quy định (31/12/2020). Các mặt hàng xuất khẩu vào EU cần đảm bảo truy xuất tới tận thửa đất nơi các mặt hàng này được sản xuất. “Sản phẩm được sản xuất trên các diện tích đất có tranh chấp hoặc không rõ ràng về pháp lý thì sẽ không đáp ứng được các yêu cầu của thị trường và không được chấp nhận tại thị trường EU”, TS.Tô Xuân Phúc cảnh báo.
Hiện một số tồn tại về sử dụng đất lâm nghiệp như kê khai về kết quả giao đất giao rừng giữa thực tế và sổ sách, tranh chấp đất đai lâm nghiệp trở thành vấn đề nóng. Đây là rào cản khiến nông sản như cà phê, cao su khó đáp ứng tiêu chuẩn EUDR.
Một số tồn tại hiện nay, như tranh chấp đất đai giữa lâm trường và các hộ dân có liên quan tới các hoạt động khoán là do lịch sử để lại, với chính sách khoán đất có thời gian lâu dài (50 năm) áp dụng cho các hộ gia đình nhận khoán. Điều này khiến các hộ nhận khoán hình thành niềm tin rằng hộ có các quyền sử dụng đất tương đương với đất được giao. Trong bối cảnh chính sách giao đất cho hộ thực hiện trong điều kiện thiếu nguồn lực, việc hộ mở rộng các diện tích canh tác bằng cách lấn chiếm vào các diện tích rừng là các tồn tại của quá khứ. Số liệu thống kê không thực chất và không phản ánh được thực tế cũng là những tồn tại nan giải.
CÒN NHIỀU TỒN TẠI VƯỚNG MẮC
Để giúp cà phê, cao su đáp ứng được tiêu chuẩn EUDR, các tồn tại có liên quan tới sử dụng và quản lý đất lâm nghiệp được đề cập ở trên cần được giải quyết triệt để. Kết luận 103 đã nêu định hướng: “Trong năm 2025, tiến hành rà soát hiện trạng đất của các công ty nông, lâm nghiệp đang quản lý, sử dụng. Phải xác định rõ diện tích đất sử dụng không đúng mục đích; diện tích đất đang giao, giao khoán, khoán trắng, cho thuê, cho mượn, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư, bị lấn chiếm và đang có tranh chấp”. Đồng thời xây dựng, ban hành chính sách hỗ trợ từ ngân sách trung ương đối với các địa phương thực sự khó khăn cho công tác đo đạc, cắm mốc ranh giới, lập phương án sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất”.
Kết luận 103 cũng nêu rõ, đối với đất lấn, chiếm có nguồn gốc nông, lâm trường đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các đối tượng qua các thời kỳ được xử lý theo hướng: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với người sử dụng đất lấn, chiếm và nay đang sử dụng mà không thuộc quy hoạch lâm nghiệp đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ hoặc không thuộc quy hoạch sử dụng đất cho mục đích xây dựng công trình hạ tầng công cộng theo quy định của pháp luật...