• International Edition
  • Giá trực tuyến: Bật
  • RSS
  • Hỗ trợ
VN-INDEX 1.682,21 +1,35/+0,08%
Biểu đồ thời gian thực
Cập nhật lúc 3:10:01 CH

Stockbiz MetaKit là phần mềm cập nhật dữ liệu phân tích kỹ thuật cho MetaStock và AmiBroker (Bao gồm dữ liệu EOD quá khứ, dữ liệu EOD trong phiên và dữ liệu Intraday trên 3 sàn giao dịch HOSE, HNX, UPCOM)

Stockbiz Trading Terminal là bộ sản phẩm tích hợp đầy đủ các tính năng thiết yếu cho nhà đầu tư từ các công cụ theo dõi giá cổ phiếu realtime tới các phương tiện xây dựng, kiểm thử chiến lược đầu tư, và các tính năng giao dịch.

Kiến thức căn bản

Tổng hợp các kiến thức căn bản về thị trường tài chính, chứng khoán giúp cho bạn có thể tiếp cận đầu tư thuận lợi hơn.

Phương pháp & Chiến lược

Giới thiệu các phương pháp luận sử dụng để phân tính, và các kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc đầu tư.

VN-INDEX    1.682,21   +1,35/+0,08%  |   HNX-INDEX   279,98   +3,35/+1,21%  |   UPCOM-INDEX   111,00   +0,38/+0,34%  |   VN30   1.865,38   +4,18/+0,22%  |   HNX30   619,65   +9,21/+1,51%
02 Tháng Chín 2025 6:16:48 CH - Mở cửa
WB - Sự suy giảm của kinh tế Việt Nam đã chạm đáy
Nguồn tin: BizLIVE | 12/11/2021 1:14:58 CH
Chỉ số sản xuất công nghiệp và tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng khởi sắc khi các hoạt động kinh tế từng bước được khôi phục.

 
Ảnh minh họa: GettyImages
 
Hôm nay (12/11), Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo mới nhìn nhận lại tình hình kinh tế-xã hội tại Việt Nam trong tháng gần nhất.
Trong bối cảnh đợt bùng phát dịch COVID-19 kéo dài, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức khi khởi động lại nền kinh tế sau một thời gian dài giãn cách xã hội. Tuy nhiên, số liệu kinh tế-xã hội tháng 10 cho thấy sự suy giảm kinh tế đã chạm đáy, theo nhận định của WB.
Cụ thể, tháng vừa qua chỉ số sản xuất công nghiệp và tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng khởi sắc khi các hoạt động kinh tế từng bước được khôi phục, tuy vẫn chưa phục hồi về mức được ghi nhận trước đợt bùng phát dịch tháng 4/2021.
Cán cân thương mại hàng hóa thặng dư tháng thứ hai liên tiếp do nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng chậm lại. Tính chung 10 tháng đầu năm 2021, Việt Nam xuất siêu 160 triệu USD. Trong khi đó, vốn FDI đăng ký giảm sau ba tháng tăng.
Mặc dù giá nhiên liệu tăng, nhưng lạm phát vẫn giảm nhẹ do giá lương thực, thực phẩm giảm và nhu cầu trong nước đối với các sản phẩm tiêu dùng khác còn yếu.
Tăng trưởng tín dụng ổn định trong tháng 10 và lãi suất qua đêm liên ngân hàng chững lại sau 4 tháng giảm.
Cân đối thu, chi ngân sách nhà nước trở lại thặng dư vào tháng 10 chủ yếu do chi ngân sách giảm mạnh mặc dù thu ngân sách tiếp tục giảm tháng thứ ba. Tính chung 10 tháng đầu năm 2021, ngân sách thặng dư, là dấu hiệu cho thấy chính sách tài khóa thắt chặt tiếp tục được thực hiện, không hỗ trợ tổng cầu trong quá trình phục hồi.
Theo WB, khi nền kinh tế mở cửa trở lại và phục hồi, ba hướng hành động chính vẫn có ý nghĩa quan trọng.
Thứ nhất, về mặt y tế, việc tiếp tục triển khai tiêm vaccine một cách nhanh chóng và tăng cường cảnh giác bằng biện pháp xét nghiệm và cách ly sẽ đóng vai trò quan trọng vì số ca nhiễm dự kiến sẽ tăng lên cùng với sự gia tăng mức độ di chuyển và tiếp xúc. 
Thứ hai, chính sách tài khóa chủ động hơn sẽ hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế. Chính sách giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) trong tháng 11 và tháng 12/2021 cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực vận tải, du lịch, lưu trú, ăn uống và giải trí đã được thông qua, và được kỳ vọng sẽ giúp thúc đẩy nhu cầu trong nước vốn đã bị suy giảm nghiêm trọng. 
Tăng tốc giải ngân vốn đầu tư công có thể hỗ trợ tổng cầu trong khi đẩy mạnh trợ giúp xã hội có thể thúc đẩy cầu từ khu vực tư nhân.
Và cuối cùng, các cơ quan chức năng cần tiếp tục chú ý theo dõi sức khỏe của khu vực tài chính.
Số ca nhiễm COVID-19 mới tăng lên vào cuối tháng 10 khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa. Trong khi số ca tử vong mới tiếp tục giảm, số ca nhiễm COVID-19 mới đã tăng trở lại trong nửa cuối tháng 10, đảo ngược xu hướng giảm nhanh từ đầu tháng 9. 
Chương trình tiêm chủng tiếp tục được đẩy mạnh, với tốc độ trung bình hơn một triệu liều được tiêm mỗi ngày. Tính đến ngày 7/11, tổng số ca nhiễm là hơn 970.000 với hơn 22.500 ca tử vong, và khoảng 60,5% dân số đã được tiêm ít nhất một liều vaccine COVID-19.
Sau khi TP.HCM và các tỉnh phía Nam khác dần dỡ bỏ các biện pháp hạn chế trong tháng 10, các chỉ số di chuyển chính đã tăng trở lại và các hoạt động kinh tế được khôi phục. Sự phục hồi đặc biệt mạnh mẽ ở các cửa hàng tạp hóa, siêu thị và hiệu thuốc, quay trở lại gần với mức trước đại dịch.
Ngược lại, chỉ số di chuyển đến nơi làm việc phục hồi với tốc độ chậm hơn so với thường thấy trong các đợt bùng phát dịch trước đó. Xu hướng di chuyển đến nơi làm việc này phần lớn phản ánh diễn biến ở các tỉnh phía Nam, nơi chỉ mới bắt đầu nới lỏng các hạn chế đi lại trong tháng 10 và đã bị ảnh hưởng bởi những khó khăn trong việc khôi phục hoàn toàn hoạt động sản xuất liên quan đến thiếu nguyên liệu và lao động.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng trở lại, thu hẹp khoảng cách với mức đạt được cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10 tăng 6,9% so với tháng trước và chỉ thấp hơn 1,6% so với một năm trước. Sự phục hồi này phần lớn nhờ hoạt động sản xuất tại TP.HCM và các trung tâm công nghiệp lân cận được khôi phục. Các tiểu ngành năng động nhất là thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, may mặc và giày dép, sản phẩm cao su và nhựa, kim loại và đồ nội thất, đạt mức tăng trưởng hai con số so với tháng trước. 
Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã tăng vọt từ 40,2 trong tháng 9 lên 52,1 vào tháng 10, lần đầu tiên vượt ngưỡng trung tính 50.0 trong 5 tháng, cho thấy điều kiện kinh tế được cải thiện đáng kể.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng tăng trở lại, nhưng chặng đường phục hồi còn dài. Tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng từ 4,4% (so với tháng trước) trong tháng 9 lên 18,1% (so với tháng trước) trong tháng 10 nhờ nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội. 
Tuy nhiên, tổng doanh thu vẫn thấp hơn 19,5% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ, vốn bị ảnh hưởng nặng nề hơn bởi đợt bùng phát dịch lần thứ tư, tiếp tục phục hồi với tốc độ nhanh hơn doanh thu bán lẻ hàng hóa. 
Hai chỉ số tăng lần lượt ở mức 44,1% và 14,5% trong tháng 10. Tuy nhiên, cả hai vẫn chưa đạt được mức ghi nhận vào tháng 10 năm ngoái.
Cán cân thương mại thặng dư trong tháng thứ hai liên tiếp nhờ tăng trưởng nhập khẩu chậm lại. Thặng dư thương mại đạt 2,85 tỷ USD trong tháng 10 do xuất khẩu hàng hóa tăng 5,7% (so với cùng kỳ năm trước) trong khi tăng trưởng nhập khẩu giảm từ 10,2% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 9 xuống còn 8,1%. 
Tính chung 10 tháng đầu năm 2021, Việt Nam xuất siêu 160 triệu USD. Kết quả tăng trưởng xuất khẩu thể hiện những thách thức trong việc khởi động lại các nhà máy sản xuất ở một số ngành sau thời gian dài thực hiện giãn cách xã hội ở các tỉnh phía Nam, trong đó có thiếu nguyên liệu và lao động. 
Về sản phẩm, xuất khẩu giày dép, dệt may và đồ gỗ trong tháng 10/2021 ghi nhận tháng giảm thứ ba liên tiếp do mức độ thâm dụng lao động cao trong quy trình sản xuất các mặt hàng này khiến việc nhanh chóng khôi phục sản xuất hết công suất trở nên khó khăn hơn. 
Xuất khẩu điện thoại cũng giảm lần đầu tiên trong 4 tháng, có thể do biến động hàng tháng của mặt hàng này. Trong khi đó, xuất khẩu máy vi tính và sản phẩm điện tử, cũng như máy móc, thiết bị tiếp tục tăng trưởng lần lượt 8,3% và 13,1% (so với cùng kỳ năm trước). 
Giá cả tăng cao tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu kim loại và sản phẩm kim loại, tăng mạnh 74,6% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 10. Về đối tác thương mại, kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ giảm 9,4% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 9, mức giảm mạnh nhất được ghi nhận trong 5 năm qua, do xuất khẩu hàng may mặc, giày dép và máy móc, thiết bị giảm mạnh. 
Xuất khẩu sang thị trường này ước tính sẽ giảm thêm 7,0% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 10, nhiều khả năng do khó khăn trong hoạt động sản xuất ở Việt Nam và tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ giảm tốc. Xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 5,9% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 9 nhưng ước tính giảm nhẹ 1,9% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 10.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký chậm lại sau chuỗi ba tháng tăng liên tiếp. Vốn FDI đăng ký đã giảm 47,4% (so với tháng trước) trong tháng 10 sau 3 tháng phục hồi mạnh mẽ. Sự đảo ngược này có khả năng phản ánh tính mùa vụ của FDI và một dự án quy mô lớn đăng ký vào tháng 9/2021. Tính chung 10 tháng đầu năm 2021, cả nước đã thu hút được 23,7 tỷ USD vốn FDI đăng ký, cao hơn 1,1% so với cùng kỳ năm 2020. 
Ngược lại, nhờ các hạn chế đi lại được nới lỏng, giải ngân vốn FDI tiếp tục phục hồi, tăng 10% (so với tháng trước) mặc dù vẫn thấp hơn 8,3% so với cùng kỳ năm trước.
Trong 10 tháng đầu năm 2021, số vốn FDI thực hiện giảm 4,1% (so với cùng kỳ năm trước).
Lạm phát giảm nhẹ mặc dù giá nhiên liệu tăng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã giảm 0,2% (so với tháng trước) trong tháng 10, sau khi giảm 0,6% trong tháng 9. Một mặt, chi phí nhóm giao thông tăng 2,1% (so với tháng trước) do giá nhiên liệu tăng, bao gồm giá xăng (tăng 6,7%) và giá dầu diesel (tăng 8,7%). 
Tuy nhiên, đợt tăng giá năng lượng này đã được bù đắp bởi giá lương thực, thực phẩm tiếp tục đi xuống, giảm 1,3% (so với tháng trước), chủ yếu là do nguồn cung thịt tồn đọng nhiều trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội. Do nhu cầu trong nước vẫn yếu, lạm phát cơ bản, chỉ số giá không bao gồm lương thực-thực phẩm, năng lượng và các mặt hàng do Nhà nước quản lý, cũng giảm 0,17% (so với tháng trước). 
So với một năm trước, CPI chỉ tăng 1,8%, thấp nhất trong 3 tháng gần đây và thấp hơn nhiều so với mục tiêu lạm phát 4,0%
Tăng trưởng tín dụng ổn định sau một thời gian ngắn giảm tốc nhờ nền kinh tế đang phục hồi. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng 14,2% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 10, tương đương với tốc độ của tháng 9. Điều này phản ánh sự phục hồi của các hoạt động kinh tế đang diễn ra sau đợt bùng phát dịch lần thứ tư, đặc biệt là trong các ngành dịch vụ. 
Thật vậy, tăng trưởng tín dụng đối với khu vực dịch vụ (chiếm hơn 60% tổng tín dụng đối với nền kinh tế) đã ổn định ở mức 15,6% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 10 sau khi giảm liên tục từ mức 18,3% trong tháng 5. Tín dụng đối với ngành công nghiệp và xây dựng giữ nguyên ở tốc độ tăng trưởng khoảng 12,7% (so với cùng kỳ năm trước) kể từ tháng 7/2021, nhưng vẫn cao hơn so với trước đại dịch.
Với nhu cầu tín dụng đang phục hồi, lãi suất qua đêm liên ngân hàng chững lại ở mức bình quân 0,65%, tương tự như mức ghi nhận vào tháng 9, chấm dứt xu hướng giảm bắt đầu từ tháng 7/2021.
Ngân sách nhà nước tháng 10 ghi nhận thặng dư sau 2 tháng thâm hụt. Cân đối thu, chi ngân sách nhà nước thặng dư 28 nghìn tỷ đồng (1,2 tỷ USD) trong tháng 10 do tổng chi giảm 18,8% mặc dù tổng thu cũng giảm 9,3% (so với cùng kỳ năm trước) do các hoạt động kinh tế chưa được khôi phục hoàn toàn. 
Chi tiêu công giảm ở cả chi đầu tư phát triển (giảm 25,7% so với cùng kỳ năm trước) và chi thường xuyên (giảm 14,2% so với cùng kỳ năm trước). Trong 10 tháng đầu năm, ngân sách thặng dư 74,9 nghìn tỷ đồng (3,2 tỷ USD), với tổng chi giảm 8,8% (so với cùng kỳ năm trước) trong khi tổng thu tăng 7,6% (so với cùng kỳ năm trước).
Với vốn đầu tư công giải ngân chậm, Chính phủ chỉ vay mức vốn khiêm tốn 15,6 nghìn tỷ đồng (0,67 tỷ USD) trên thị trường trong nước trong tháng 10, nâng tổng vay nợ tính từ đầu năm lên 264,4 nghìn tỷ đồng (14,4 tỷ USD), tương đương 75,5% kế hoạch năm. Thanh khoản dồi dào tiếp tục giữ chi phí vay ở mức thấp, với lợi suất trái phiếu Kho bạc Nhà nước kỳ hạn 10 năm trên thị trường sơ cấp tăng nhẹ 3 điểm cơ bản lên 2,15% vào cuối tháng 10.