Trung Quốc là nước tiêu thụ nhiều hàng hóa quan trọng như dầu thô và quặng sắt nhưng lại phụ thuộc đáng kể vào nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu nội địa.
“Nếu Trung Quốc có điểm yếu, đó chính là sự phụ thuộc đáng kể vào tài nguyên thiên nhiên từ bên ngoài”, tổ chức tư vấn rủi ro Verisk Maplecroft cho biết trong báo cáo công bố tuần này.
Trung Quốc là nước tiêu thụ nhiều hàng hóa quan trọng như dầu thô và quặng sắt nhưng lại phụ thuộc đáng kể vào nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu nội địa.
Một cách để Trung Quốc đa dạng hóa nguồn nhập khẩu là mua cổ phần tại các công ty nước ngoài, theo Verisk Maplecroft. Điều này giúp tăng tỷ lệ tài nguyên Trung Quốc sở hữu trong tổng giá trị nhập khẩu.
Ví dụ, số công ty vàng và kim loại cơ bản thuộc sở hữu của Trung Quốc tại châu Đại dương tăng từ 0 hồi năm 2000 lên 59 trong năm 2020, tương đương 22,6% tổng sở hữu nước ngoài tại các công ty đó.
Châu Đại dương gồm Australia, Papua New Guinea, New Zealand, Fiji và nhiều đảo quốc khác.
Sở hữu nước ngoài tại các công ty vàng và kim loại cơ bản ở châu Đại dương.
“Trung Quốc đang tìm cách tăng cường kiểm soát lên các chuỗi cung ứng toàn cầu thông qua đầu tư ra nước ngoài và lập quan hệ đối tác với các bên lớn. Bắc Kinh hậu thuẫn cho doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc ‘vươn ra thế giới’ và dần kiểm soát các nguồn tài nguyên ở nước ngoài từ cuối những năm 1990”, báo cáo cho biết.
Trung Quốc nhập khẩu các hàng hóa quan trọng như dầu thô, khí thiên nhiên, than luyện kim và quặng sắt từ nhóm đối tác thương mại “có tính tập trung cao”, theo Verisk Maplecroft. Để đa dạng hóa nguồn nhập khẩu, Trung Quốc ưu tiên các nhà cung ứng từ “những nền kinh tế ổn định”, tránh sự thay đổi lãnh đạo hoặc chính sách thường xuyên.
“Bằng cách đảm bảo nguồn cung đa dạng, Trung Quốc sẽ có vị thế tốt hơn để vũ khí hóa thương mại với các đối thủ địa chính trị, đồng thời tăng độc lập kinh tế với các đối tác hiện có và mới”.
Bên cung ứng quặng sắt lớn nhất của Trung Quốc năm 2020 là Australia, một đồng minh của Mỹ.
Năm ngoái, Australia vận chuyển trung bình 60,86 triệu tấn quặng sắt/tháng cho Trung Quốc, chiếm hơn 60% tổng lượng nhập khẩu của quốc gia này, theo số liệu từ Refinitiv.
Đó là lý do Trung Quốc thắt chặt quan hệ thương mại với các nước sản xuất quặng sắt khác như Brazil và Guine, theo Verisk Maplecroft. “Dù có quan điểm cứng rắn hơn với Bắc Kinh dưới thời Tổng thống Bolsonaro, Brazil vẫn là một ưu tiên trong chiến lược đa dạng hóa của Trung Quốc”.
Vũ khí hóa thương mại
Trung Quốc đến nay đang là đối tác thương mại hàng hóa và dịch vụ lớn nhất của Trung Quốc, chiếm 39,4% về xuất khẩu hàng hóa và 17,6% về xuất khẩu dịch vụ trong năm 2019 và 2020, công ty nghiên cứu Capital Economics nhận định.
Bắc Kinh thể hiện họ sẵn sàng sử dụng thương mại để làm đòn bẩy địa chính trị, theo Verisk Maplecroft. Ví dụ, Trung Quốc cấm nhập khẩu than từ Australia. Quan hệ giữa hai nước xấu đi sau khi Australia ủng hộ lời kêu gọi điều tra quốc tế về cách Trung Quốc ứng phó Covid-19, bùng phát lần đầu tại thành phố Vũ Hán.
Than chỉ là một trong những mặt hàng xuất khẩu của Australia bị ảnh hưởng từ những biện pháp đáp trả của Trung Quốc, từ thuế đến hạn chế hoặc cấm.
Những căng thẳng địa chính trị có thể kéo dài khi Trung Quốc tăng tốc nỗ lực giảm phụ thuộc vào các nguồn cung tài nguyên “không thân thiện”, Verisk Maplecroft cảnh báo. “Lệnh cấm nhập than từ Australia chính là ví dụ điển hình và có thể còn xảy ra, với những tác động đáng kể lên thương mại hàng hóa toàn cầu và bối cảnh địa chính trị”.
“Các công ty và nhà đầu tư đang nằm trong tầm nhìn ngoại giao của Trung Quốc và sẽ cần chuẩn bị phù hợp”.