Với mức độ ảnh hưởng rộng lớn của công nghệ trí tuệ nhân tạo. Một số người đang phỏng đoán bao nhiêu việc làm có thể bị thay thế hay tăng thêm do AI.
Một vấn đề đang được quan tâm hiện nay là trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ làm thay đổi nền kinh tế Mỹ ra sao trong những năm tới, kể cả vấn đề không thực sự thu hút nhiều sự chú ý dù quan trọng là triển vọng ngân sách của nước Mỹ.
Bắt đầu từ mùa Thu năm ngoái, AI đã thu hút sự quan tâm lớn, với cả những đánh giá tích cực và tiêu cực. Tuy nhiên, sức nóng của AI có thể đã nguội đi, khi mức sử dụng ChatGPT, ứng dụng dựa trên AI được biết đến nhiều nhất, đã giảm trong những tháng gần đây. Và nhiều nhà quan sát đã nhận thấy những gì được gọi là AI, hay AI tạo sinh theo cách gọi của những người thận trọng hơn, không thực sự thông minh mà là hình thức ngoại suy từ nhận dạng mẫu.
Điều đó không có nghĩa AI không quan trọng. AI có thể tác động lớn đến nền kinh tế, ngay cả khi không dẫn tới sự ra đời của HAL 9000, nhân vật AI hư cấu và là nhân vật phản diện chính trong loạt phim Space Odyssey của Arthur C. Clarke hay SkyNet, hệ thống trí tuệ nhóm có ý thức dựa trên mạng lưới thần kinh nhân tạo hư cấu và hệ thống siêu trí tuệ tổng hợp nhân tạo đóng vai trò là lực lượng đối kháng của loạt phim Kẻ hủy diệt.
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng đến đâu và theo dạng thức nào là những vấn đề không một ai thực sự có câu trả lời. Một số người đang tìm hiểu những tác động từ những điều nhỏ nhất, xem xét các loại công việc và phỏng đoán bao nhiêu việc làm có thể bị thay thế hay tăng thêm do AI.
Tính toán của Goldman Sachs cho hay tốc độ tăng trưởng năng suất tăng thêm gần 1,5 điểm phần trăm một năm trong một thập kỷ nhờ AI. Thực tế cho hay điều này là có căn cứ nếu xem xét mối liên quan giữa công nghệ và năng suất. Sự bùng nổ về năng suất trong giai đoạn 1995-2005 diễn ra sau nhiều thập kỷ tăng trưởng năng suất yếu. Một báo cáo gần đây của Brookings Institution cho thấy sự bùng nổ này gần như là do năng suất nhân tố tổng hợp, tức là sự gia tăng sản lượng trên mỗi đơn vị đầu vào, nhờ sự tiến bộ về công nghệ. Sự bùng nổ này rất rõ ràng là nhờ công nghệ thông tin.
Tuy nhiên, năng suất tăng sẽ mang lại sự giàu có hơn hay đơn giản là làm giảm số việc làm. Lo ngại về tình trạng thất nghiệp do công nghệ như đã được nhắc tới vào năm 1930 đã quay trở lại. Trong khi công nghệ thường làm mất việc làm, điều này thường là sự điều chỉnh tạm thời, khi những việc làm mới xuất hiện thay cho những việc làm đã mất. Chẳng hạn, cú sốc Microsoft Excel, tức sự xuất hiện của các phần mềm bảng tính, có thể đã khiến những người làm công việc ghi sổ kế toán mất việc, nhưng những công việc này được thay thế bằng số việc làm thậm chí còn nhiều hơn về phân tích tài chính.
Nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes đã dự báo một tương lai mà con người làm việc ít hơn nhiều và việc làm gì trong thời gian rảnh rỗi trở thành một mối quan tâm lớn của xã hội. Thực tế, việc điều này chưa từng xảy ra trong hơn 90 năm qua là lý do để hoài nghi về những dự báo tương tự như dự báo của Jamie Dimon, Chủ tịch và CEO của ngân hàng Mỹ JPMorgan Chase, rằng một ngày nào đó AI sẽ rút ngắn tuần làm việc chỉ còn 3 ngày rưỡi.
Tuy nhiên, không có lý do để tin rằng AI sẽ gây thất nghiệp hàng loạt mà chỉ ảnh hưởng nhiều đến những người mất việc và gặp khó khăn khi tìm việc làm mới hoặc buộc phải chấp nhận giảm mức lương. Những lao động nào sẽ có nguy cơ mất việc?. Câu trả lời có thể rơi vào những việc làm hành chính với nhiều lao động được trả lương cao, trong khi những công chức gần như không bị ảnh hưởng.
Điều đó có thể đúng với AI tạo sinh, nhưng việc ứng dụng dữ liệu lớn có thể ảnh hưởng tới việc làm của những lao động chân tay. Chẳng hạn, giữa những ồn ào về ChatGPT, xe tự lái bắt đầu đi vào hoạt động sau nhiều năm phô trương thất bại lại không thu hút nhiều sự chú ý. Tuy nhiên, không như những tiến triển công nghệ trong hơn 40 năm qua, AI sẽ giúp bất bình đẳng thu nhập giảm bớt thay vì gia tăng.
Cuối cùng, điều có thể đáng để lưu tâm là AI tạo sinh có thể ảnh hưởng ra sao đến một vấn đề lại đang "nóng" là những lo ngại về nợ công. Cho đến gần đây, nhiều nhà kinh tế tranh luận rằng nợ công ít gây lo ngại hơn so với nhận định của nhiều người, khi lợi suất trái phiếu thấp hơn tốc độ tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế.
Điều này có nghĩa quan điểm chung cho rằng nợ sẽ lớn dần, khi khoản thanh toán lợi suất khiến nợ tăng, là sai. Tỷ lệ nợ trên GDP có xu hướng giảm xuống thay vì tăng lên. Tuy nhiên, việc lãi suất tăng nhanh khiến nợ trở thành mối lo ngại đáng kể. Các ước tính về tốc độ tăng trưởng bền vững dài hạn của nền kinh tế, như các dự báo của Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), có xu hướng đưa ra con số 1,8%. Và lợi suất thực đối với nợ liên bang hiện trên mức này.
Các cuộc thảo luận của Fed về tính bền vững của nợ không gắn với những gì được nói về AI tạo sinh. Trên thực tế, có những cảnh báo về cả khủng hoảng nợ và tình trạng thất nghiệp hàng loạt do AI.
Tuy nhiên, nếu các ước tính lạc quan về tác động tích cực nhờ công nghệ là đúng, mức tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn nhiều so với con số 1,8% trong thập kỷ tới và nợ sẽ không trở thành vấn đề lớn, nhất là khi tăng trưởng mạnh hơn sẽ làm tăng nguồn thu và giảm thâm hụt ngân sách.
Dù vậy, tất cả những điều này mang tính giả thiết, khi không ai thực sự biết được AI sẽ có tác động lớn đến đâu./.