Với dân số đông và tốc độ chuyển đổi số nhanh, Việt Nam đang sở hữu “kho báu dữ liệu” lớn. Tuy nhiên, các chuyên gia cảnh báo Việt Nam đang đối mặt với nguy cơ “thuộc địa hóa dữ liệu” khi phần lớn dữ liệu người dùng được lưu trữ trên các nền tảng nước ngoài. Do đó, đây là thời điểm phù hợp để Việt Nam tạo hành lang pháp lý cho phát triển và quản lý AI.
Thông tin tại Hội thảo “Chiến lược AI và Kiến trúc dữ liệu quốc gia, tổ chức và doanh nghiệp” được tổ chức chiều 10/9, PGS.TS Nguyễn Ái Việt, Viện trưởng Viện Công nghệ và giáo dục trí tuệ mới tạo sinh (IGNITE) phân tích, những quốc gia nắm bắt được dữ liệu - tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng của nền kinh tế số, sẽ bứt phá.
Với Việt Nam, ngay từ bây giờ, “kiến trúc dữ liệu”, “phương pháp luận dữ liệu”, “mô hình chiến lược quốc tế” phải trở thành nền móng để xây dựng con đường đặc sắc của trí tuệ Việt Nam trong kỷ nguyên AI. “Con đường này hiện còn rào cản về thể chế, thói quen, văn hóa và những thách thức trong đổi mới”, ông Ái Việt nói.
Theo các chuyên gia, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu không còn là lĩnh vực công nghệ thuần túy, mà là nhân tố cốt lõi quyết định chủ quyền, sức cạnh tranh và vị thế quốc gia trong kỷ nguyên mới. Việt Nam chỉ có thể tận dụng được “kho báu dữ liệu” và tiềm năng AI khi biết biến tầm nhìn thành luật pháp, chiến lược và hành động cụ thể.

Các chuyên gia cho rằng, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu không còn là lĩnh vực công nghệ thuần túy, mà là nhân tố cốt lõi quyết định chủ quyền, sức cạnh tranh và vị thế quốc gia trong kỷ nguyên mới.
Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu quốc gia (Bộ Công an) nhấn mạnh, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn trong quản trị dữ liệu, với nguy cơ “thuộc địa hóa dữ liệu”, khi phần lớn dữ liệu người dùng được lưu trữ trên các nền tảng nước ngoài.
Theo Giám đốc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia, những quốc gia có thể thu thập, xử lý và khai thác hiệu quả dữ liệu sẽ có lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Với dân số đông và tốc độ chuyển đổi số nhanh, Việt Nam đang sở hữu “kho báu dữ liệu” lớn. Điều này có thể dẫn đến ba hệ quả nghiêm trọng: phụ thuộc công nghệ, chảy máu giá trị và rủi ro an ninh.
Dữ liệu là yếu tố sản xuất thứ tư, sau lao động, vốn và đất đai. Đặc biệt, nó có thể tăng hiệu quả của cả ba yếu tố truyền thống này thông qua tối ưu hóa lao động, hiệu quả vốn và sử dụng đất hiệu quả. Vì vậy, những quốc gia nào có thể thu thập, xử lý và khai thác hiệu quả dữ liệu sẽ có lợi thế cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu.
Ông Nguyễn Ngọc Cương đề xuất 3 việc cần làm, đó là: Xây dựng hệ thống quản trị dữ liệu thống nhất dựa trên 4 trụ cột thể chế, công nghệ, quy trình và con người; phát triển năng lực khai phá dữ liệu toàn diện; xây dựng hệ sinh thái dữ liệu bền vững, tạo ra mạng lưới các bên liên quan cùng hưởng lợi, từ Nhà nước, doanh nghiệp đến viện, trường và người dân.
Ông Trần Văn Khải - Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cũng chỉ rõ: “Nghị quyết 57 đặt mục tiêu đến 2030 Việt Nam nằm trong nhóm dẫn đầu Đông Nam Á về AI. Để đạt mục tiêu này, cần sớm ban hành Luật AI. Giai đoạn 2025 - 2026 là thời điểm phù hợp để tạo hành lang pháp lý cho phát triển và quản lý AI”.
“Luật AI của Việt Nam cần luật hóa các chính sách quan trọng như nguyên tắc AI nhân văn, đảm bảo AI phục vụ con người, tôn trọng quyền riêng tư và các giá trị đạo đức. Đồng thời, phải quản lý rủi ro và minh bạch, bắt buộc dán nhãn nội dung do AI tạo ra để ngăn ngừa tin giả; hạ tầng dữ liệu; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cho phép thử nghiệm sandbox cho ứng dụng AI trong môi trường kiểm soát và xác định rõ trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân phát triển”, ông Khải nhấn mạnh
Hồng Hương-Link gốc