Ấn Độ là đất nước xuất khẩu tôm hàng đầu thế giới.
Xuất khẩu tôm quý I của Việt Nam tăng 41% về sản lượng và 10% về giá trị.
Xuất khẩu cá tra cũng hưởng lợi nhờ nhu cầu Mỹ phục hồi.
Theo Trung tâm phân tích Chứng khoán SSI (SSI Research), số liệu của VASEP cho thấy kim ngạch xuất khẩu thủy sản 4 tháng đầu năm đạt 2,5 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Từ năm 2020 đến tháng 2, hàng xuất khẩu của Việt Nam phải trải qua nhiều thách thức do gián đoạn chuỗi giá trị toàn cầu trước ảnh hưởng dịch Covid-19. Tuy nhiên, sự phục hồi đã diễn ra trong giai đoạn 2 tháng gần đây, xuất khẩu thủy sản tăng lần lượt 17% và 30% so với cùng kỳ 2020 trong tháng 3 và 4.
Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm được hưởng lợi từ làn sóng Covid-19 tại Ấn Độ - đất nước xuất khẩu tôm hàng đầu thế giới. Ấn Độ sản xuất khoảng 650.000-700.000 tấn tôm trong năm 2020, giảm 30% so với 2019. Làn sóng Covid-19 gần đây ở Ấn Độ đã khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn, trái ngược với nhiều dự báo về việc sản lượng sản xuất tôm ở Ấn Độ sẽ phục hồi trong nửa cuối năm 2021. Do đó, điều này tạo cơ hội cho các đối thủ cạnh tranh (Ecuador, Indonesia, và Việt Nam) cải thiện thị phần trong các nước nhập khẩu - đặc biệt là ở Mỹ.
Theo Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAA), xuất khẩu tôm nguyên liệu nước ấm của Ấn Độ sang Mỹ giảm 9% về sản lượng và giảm 10% về giá trị so với cùng kỳ năm trước trong quý I. Trong khi đó, các nước đối thủ cạnh tranh của Ấn Độ tiếp tục tăng trưởng. Ecuador là nước hưởng lợi tức thì, với mức tăng trưởng 37% về sản lượng và 44% về giá trị trong quý. Ecuador có lợi thế cạnh tranh nhờ giá bán bình quân thấp nhất trong số nhóm 5 nước hàng đầu - cạnh tranh trực tiếp với Ấn Độ.
Nhóm 5 nước xuất khẩu tôm nguyên liệu nước ấm (HS03) hàng đầu sang Mỹ.
Việt Nam ghi nhận xuất khẩu tôm tăng 41% về sản lượng và tăng 10% về giá trị so với quý I/2020, có cơ hội mở rộng thị phần tại Mỹ. Với tôm nguyên liệu, giá xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở mức khá cao so với các đối thủ cạnh tranh (do tỷ trọng tôm sú có giá bán bình quân cao hơn). Giá bán bình quân đối với tôm thẻ chân trắng nguyên liệu vẫn khá ổn định (10 USD/kg), giá bán bình quân trong quý I giảm là do sự thay đổi trong cơ cấu sản phẩm để giảm tỷ trọng tôm sú với giá cao hơn. Tỷ lệ doanh thu tôm thẻ chân trắng/tômsú thay đổi từ 87/13 quý I/2020 thành 91/9 trong quý I/2021. Điều này là do tôm sú thường được tiêu thụ trong các kênh nhà hàng và khách sạn vẫn đang đóng cửa một phần do dịch Covid-19.
Dịch Covid-19 cũng đã làm thay đổi hành vi của người tiêu dùng, trong đó nhu cầu đối với tôm chế biến đã tăng lên đáng kể. Đây luôn là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trước Ecuador tại thị trường Mỹ và đối với tất cả các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới (EU và Nhật Bản ưa chuộng tôm chế biến).
VASEP dự báo xuất khẩu tôm của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng do nhu cầu toàn cầu tăng nhẹ trong khi nguồn cung từ nhiều nước sản xuất sẽ giảm do Covid-19.
Với cá tra, các doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng lợi từ nhu cầu tại Mỹ phục hồi. Xuất khẩu cá tra Việt Nam tăng 3% so với cùng kỳ trong quý I và 26% trong nửa đầu tháng 4, trong đó xuất khẩu sang Mỹ (thị trường hàng đầu) tăng trở lại lần lượt ở mức 16% và 120%.
Vasep cũng dự kiến giá bán bình quân từ tháng 12/2020 đến tháng 1/2021 đã chạm đáy (do cả các yếu tố chu kỳ và nhu cầu dễ ảnh hưởng do dịch bệnh) và giá bán bình quân của tất cả các thị trường sẽ phục hồi vào cuối năm.
Trong quý II, VASEP dự kiến xuất khẩu tôm và cá tra sẽ tăng lần lượt 10% và 7% so với cùng kỳ. Đến cuối năm 2021, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có thể được hưởng lợi từ 2 cơ hội chính là giành thị phần từ đối thủ cạnh tranh có sản lượng sản xuất bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19; tiếp tục tăng trưởng từ mảng bán lẻ và bán hàng trực tuyến trong khi nhu cầu từ kênh nhà hàng sẽ sớm phục hồi.
Tuy nhiên, lợi nhuận hầu hết các doanh nghiệp thủy sản đều giảm trong quý I do giá nguyên liệu tăng mạnh hơn giá bán và chi phí logistics cao hơn. SSI Research cho rằng giá bán bình quân có thể tăng dần vào cuối năm nhưng chi phí logistics thì vẫn ở mức cao.