Ngành thép Việt Nam phục hồi mạnh nhờ nhu cầu nội địa và đầu tư công, song vẫn đối mặt áp lực xuất khẩu từ bảo hộ thương mại và phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu.
Phôi thép ra lò tại Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên. Ảnh: Hoàng Nguyên-TTXVN
Ngành thép Việt Nam đã có sự phục hồi sau hai năm suy giảm. Sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu đang có tín hiệu tích cực nhờ nhu cầu nội địa tăng, đầu tư công đẩy mạnh và giá thép thế giới ổn định trở lại. Tuy nhiên, ngành vẫn phải đối mặt với áp lực bảo hộ thương mại ngày càng gia tăng từ nhiều thị trường xuất khẩu chủ lực.
Quý III/2025, theo dự báo của Chứng khoán MB (MBS
), sản lượng nội địa tiếp tục trở thành điểm sáng với mức tăng khoảng 21% so với cùng kỳ, đạt 6,3 triệu tấn; trong đó, nhóm thép xây dựng và HRC (cuộn cán nóng) chiếm khoảng 65% tổng sản lượng, với HRC được dự báo có mức tăng nổi bật 48% so với cùng kỳ năm 2024 nhờ một số nhà máy lớn tăng công suất. Sản lượng thép tăng trong bối cảnh nguồn cung bất động sản tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh dự báo phục hồi trên 30% so với cùng kỳ, đồng thời giải ngân vốn đầu tư công tăng trưởng mạnh mẽ khoảng 18% so với cùng kỳ năm 2025, giúp sản lượng tiêu thụ thép xây dựng dự báo tăng trưởng 10% trong quý III.
Cùng đó, nhờ phân kỳ 2 của nhà máy Dung Quất 2 đi vào vận hành trong quý III và các doanh nghiệp nội địa gia tăng thị phần lên khoảng hơn 60%, sản lượng tiêu thụ HRC sẽ tăng trưởng 48% so với cùng kỳ, đạt mức 1,7 triệu tấn. MBS
dự báo trong các quý tiếp theo, các doanh nghiệp sản xuất HRC nội địa như Tập đoàn Hòa Phát (mã chứng khoán: HPG
) và Công ty thép Formosa Hà Tĩnh (mã chứng khoán: FHS) có khả năng cải thiện thị phần nhờ dòng sản phẩm HRC khổ rộng nhập khẩu từ Trung Quốc có thể bị kiểm soát.
Ngược lại, sản lượng thép xuất khẩu dự báo tiếp tục ảm đạm khi tình hình tiêu thụ tại các khu vực như EU và Mỹ kém khả quan, khiến sản lượng thép xuất khẩu có thể suy giảm 10% so với cùng kỳ.
Không chỉ tăng về sản lượng, giá bán thép cũng đang hồi phục theo đà tăng của thép Trung Quốc, do nước này cắt giảm sản lượng. Ngày 3/9, Hòa Phát thông báo giá bán thép HRC loại SAE1006 hoặc SS400 giao tháng 11 ở mức 526 USD/tấn CFR miền Nam Việt Nam, tăng 11 USD/tấn so với tháng trước. Tiếp đó, Formosa Hà Tĩnh điều chỉnh tăng giá HRC nội địa tháng thứ hai liên tiếp, với mức tăng 11–12 USD/tấn cho loại SAE1006 giao tháng 10–11/2025, đưa giá dao động từ 519–528 USD/tấn CFR tại cảng TP. Hồ Chí Minh hoặc Phú Mỹ. Ông Lê Hải Thành, chuyên gia phân tích của MBS
nhận định, động thái tăng giá bán cho thấy nhu cầu nội địa đang ở mức cao và có thể cạnh tranh với thép Trung Quốc nhờ hỗ trợ từ thuế chống bán phá giá.
Trong quý III, giá HRC và thép xây dựng đã có mức phục hồi nhẹ, lần lượt 2% và 3% so với quý trước và đi ngang so với cùng kỳ. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn được hưởng lợi từ giá nguyên vật liệu ở mức thấp nhờ hàng tồn kho từ quý II, với giá than và quặng giảm 6% và 5% so với cùng kỳ trong bối cảnh nhu cầu sản xuất giảm tại Trung Quốc. Việc giá thép phục hồi nhẹ và giá nguyên vật liệu ở mức thấp được kỳ vọng tác động tích cực tới biên lợi nhuận gộp quý III.
Đối với Hòa Phát, biên lợi nhuận gộp tăng 4% so với cùng kỳ nhờ giá thép đi ngang và giá than, quặng giảm. Các doanh nghiệp tôn mạ như Công ty cổ phần Tập đoàn Hoa Sen (mã chứng khoán: HSG
) nhờ tồn kho HRC giá thấp và giá tôn mạ phục hồi giúp biên gộp tăng 4,7 điểm % so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp xuất khẩu như Công ty cổ phần Thép Nam Kim (NKG
) và Công ty cổ phần Tôn Đông Á (GDA
) biên lợi nhuận gộp phục hồi lần lượt 0,1% và 0,2% so với cùng kỳ.
Diễn biến tích cực của thị trường thép trong quý III dự kiến phản ánh vào kết quả kinh doanh. MBS
dự báo lợi nhuận sau thuế của Hòa Phát có thể đạt 4.700 tỷ đồng, tăng 56% so với cùng kỳ, nhờ sản lượng cải thiện 23% và biên lợi nhuận gộp phục hồi 4%. Lợi nhuận 9 tháng 2025 của Hòa Phát được dự báo tăng 34% và hoàn thành 82% kế hoạch năm.
Theo Công ty cổ phần Chứng khoán SSI (SSI), sự phục hồi ngành thép rõ nét khi Hòa Phát dự báo đạt 4.500 tỷ đồng lợi nhuận, tăng 49% so với cùng kỳ; Hoa Sen chuyển từ lỗ sang lãi nhờ chi phí đầu vào giảm.
Tuy nhiên, ngành thép Việt Nam đang chịu tác động từ chính sách bảo hộ thương mại tại các thị trường xuất khẩu. Ủy ban châu Âu (EC) ban hành Quyết định EU 2025/1919 áp thuế chống bán phá giá với một số HRC Việt Nam, mức 12,1%. Hòa Phát, bao gồm các công ty thành viên Dung Quất, thép cán nguội, Tôn Hòa Phát, được miễn hoàn toàn thuế, giữ lợi thế cạnh tranh tại EU. Trong khi đó,
Công ty thép Formosa Hà Tĩnh và nhiều doanh nghiệp khác vẫn phải gánh thuế 12,1%, đối diện nguy cơ thu hẹp thị phần. Ấn Độ cũng áp thuế tự vệ tạm thời 12% đối với thép cán phẳng nhập khẩu từ Việt Nam, đồng thời yêu cầu tuân thủ tiêu chuẩn BIS.
Về xuất khẩu, Mỹ hiện là thị trường lớn thứ ba của Việt Nam (chiếm 13% sản lượng xuất khẩu), với khoảng 1,7 triệu tấn năm 2024, kim ngạch 1,3 tỷ USD. Tuy nhiên, Mỹ liên tục nâng thuế từ 25% lên 50%, tác động đáng kể đến các doanh nghiệp xuất khẩu. Tại EU, cơ chế thuế carbon biên giới (CBAM) từ năm 2026 sẽ tạo rào cản mới.

Vận hành máy móc gia công sản xuất thép lá tại Khu công nghiệp Tân Tạo. Ảnh: TTXVN
Ngoài ra, ngành thép Việt Nam còn phụ thuộc lớn vào nhập khẩu nguyên liệu. Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), năm 2024, nhập khẩu thép thành phẩm đạt 17,7 triệu tấn, trị giá 12,6 tỷ USD, trong khi xuất khẩu chỉ 12,6 triệu tấn, trị giá hơn 9 tỷ USD, thể hiện Việt Nam nhập siêu thép. Trung Quốc chiếm 67% tổng lượng nhập khẩu, tiếp đến là Nhật Bản 2,2 triệu tấn và Hàn Quốc 1,4 triệu tấn. Đối với HRC, Việt Nam chỉ có Hòa Phát và Formosa Hà Tĩnh sản xuất, nhưng chỉ đáp ứng một nửa nhu cầu; phần còn lại phụ thuộc nhập khẩu, trong đó Trung Quốc chiếm 70%.
Theo Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), giá quặng sắt SGX dao động dưới 100 USD/tấn gần hai tháng qua, trong khi đầu tháng 4 giá tăng trên 103 USD/tấn do căng thẳng thương mại Mỹ–Trung. Giá thép cây Thượng Hải có thời điểm đạt 3.180 NDT/tấn, thép cuộn cán nóng, thép không gỉ và thép dây tăng 0,5–1,46%. Những biến động này cho thấy sự phụ thuộc vào nguồn cung Trung Quốc và rủi ro từ các vụ kiện chống bán phá giá quốc tế.
Ông Nguyễn Đức Dũng, Phó Tổng Giám đốc MXV nhấn mạnh, việc giảm phụ thuộc vào nhập khẩu Trung Quốc không còn là lựa chọn mà là điều bắt buộc. Đầu tư công nghệ luyện thép lò điện hồ quang (EAF) giúp giảm phát thải môi trường, nhưng 60% phế liệu dùng cho EAF phải nhập khẩu. Ngoài ra, xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc và kiểm soát cấp chứng nhận xuất xứ (C/O) là ưu tiên hàng đầu.
Để duy trì sức cạnh tranh, ngành thép Việt Nam cần nâng cấp chuỗi giá trị, sản xuất thép cán nguội, thép hợp kim chất lượng cao, cải tiến quy trình luyện-cán, và kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt. Việc đa dạng hóa nguồn cung, đầu tư công nghệ, và nâng cấp sản phẩm là chiến lược bắt buộc để ngành thép không chỉ tận dụng thuận lợi từ nhu cầu nội địa và đầu tư công, mà còn đối phó với rủi ro toàn cầu từ bảo hộ thương mại.
Ngành thép Việt Nam đang ở thời điểm thuận lợi khi sản lượng, giá bán và lợi nhuận nội địa phục hồi, nhưng cũng đứng trước thách thức toàn cầu khi phụ thuộc nhập khẩu và đối mặt với các hàng rào bảo hộ. Việc cân bằng giữa khai thác cơ hội và phòng ngừa rủi ro sẽ quyết định khả năng duy trì đà tăng trưởng bền vững trong năm 2025 và những năm tiếp theo.
Link gốc