Mối nguy thất thu xuất khẩu vào thị trường Mỹ ngày thêm hiện hữu như nguy cơ bị cấm nhập khẩu các loài hải sản từ 12 nghề cá không được công nhận tương đương, rủi ro thuế quan, mất khả năng cạnh tranh…, đang đòi hỏi ngành thủy sản Việt cần có giải pháp hóa giải. Theo đó, những lối đi chiến lược như dịch chuyển thị trường, chế biến sâu, quay về “sân nhà”…là điều mà ngành hàng này nên làm khẩn trương hơn nữa.
Thông tin đưa ra từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (Vasep) hôm 10/9 cho biết phán quyết cuối của Cục quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA) từ chối công nhận tương đương một số nghề cá theo Đạo luật bảo vệ động vật biển có vú (MMPA). Điều này dẫn tới khả năng một số mặt hàng thủy sản Việt Nam có thể sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ kể từ ngày 1/1/2026.
Vẫn còn những cánh cửa đang mở
Trong đó, đáng chú ý có 12 nghề cá (điển hình như các nghề đánh bắt cá ngừ, cá thu, tôm hùm, mực nang, cua ghẹ, cá cờ…) không được công nhận tương đương với quy định của Mỹ.

Ngành hàng thủy sản cần những lối đi chiến lược để tránh mối nguy thất thu từ thị trường Mỹ.
Theo bà Nguyễn Hà, chuyên gia thị trường cá ngừ của Vasep, quyết định của NOAA không chỉ đe dọa gây thất thu kim ngạch xuất khẩu (XK) hải sản sang Mỹ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của hàng trăm nghìn ngư dân và tác động tiêu cực đến toàn chuỗi cung ứng thủy sản cũng như làm suy giảm uy tín thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Cũng nên nhắc lại, hồi năm 2024 Việt Nam đã XK gần 512 triệu USD các loài hải sản từ 12 nghề cá nêu trên sang Mỹ, chiếm gần 1/4 tổng kim ngạch XK các loài này của Việt Nam. Trong đó, cá ngừ chiếm tỷ trọng cao nhất là 18%, tiếp đến là ghẹ chiếm 3% và mực gần 1%.
“Mặc dù các nỗ lực trước đây (như bổ sung tài liệu, cập nhật các quy định, và các hoạt động vận động ngoại giao…) đã được triển khai tích cực, kết quả việc từ chối công nhận của NOAA vẫn tạo ra thách thức lớn, đòi hỏi các biện pháp phối hợp khẩn cấp trước mắt và dài hạn từ Chính phủ và các Bộ ngành liên quan”, bà Nguyễn Hà lưu ý.
Ngoài vấn đề nêu trên thì mối nguy thất thu từ rủi ro thuế quan cũng đang đè nặng các doanh nghiệp (DN) XK thủy sản vào thị trường Mỹ. Đơn cử như với các DN xuất khẩu tôm thì rủi ro từ thuế chống bán giá cao vẫn luôn hiện hữu.
Như trường hợp CTCP thực phẩm Sao Ta (FMC
), theo nhận định mới đây từ Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán Bảo Việt (BVSC), rủi ro lớn còn hiện hữu đối với thuế chống bán phá giá do FMC
đứng trước nguy cơ bị đánh thuế mức 35,29%. Phía FMC
tiếp tục theo dõi kết quả chính thức sau khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) cử chuyên gia sang làm việc với DN Việt Nam, và kỳ vọng kết quả cuối cùng được công bố vào tháng 12/2025.
Và do còn rủi ro thuế quan từ Mỹ nên FMC
chủ trương không ký nhiều hợp đồng đi thị trường này, chỉ ký chọn lọc đối với khách hàng lâu năm, vì vậy doanh thu và sản lượng XK có thể chậm lại trong các tháng cuối năm nay.
Không riêng gì FMC
, theo bà Tô Thị Tường Lan, Phó tổng thư ký của Vasep, khoảng 23 doanh nghiệp XK tôm lớn đối mặt với mức thuế rất cao, khiến giá bán vào Mỹ tăng mạnh, mất hoàn toàn khả năng cạnh tranh với các quốc gia khác như Ấn Độ, Ecuador, nơi mức thuế thấp hơn và chi phí sản xuất cạnh tranh hơn. XK tôm Việt Nam sang Mỹ có thể ngừng trệ, thậm chí mất luôn thị trường Mỹ dẫn đến suy giảm doanh thu và suy giảm niềm tin của người nuôi.
Chính vì lẽ đó, vấn đề đang được đặt ra với ngành thủy sản Việt là có hóa giải được mối nguy thất thu ở thị trường Mỹ trong thời gian tới hay không?
Nhiều ý kiến từ giới phân tích cho rằng muốn tránh thất thu là cần dịch chuyển thị trường. Khi một cánh cửa có vẻ đang dần “thu hẹp”, vẫn còn những cánh cửa đang mở – nhưng cơ hội chỉ bền vững nếu DN xuất khẩu thủy sản biết tận dụng để đa dạng hóa thị trường thay vì chạy theo con số ngắn hạn.
Kỳ vọng lối đi chiến lược
Bên cạnh đó, chế biến sâu cũng được xem là lối đi chiến lược để ngành thủy sản tránh thất thu. Chia sẻ với VnBusiness, bà Tô Thị Tường Lan nhận định ngành thủy sản ở Việt Nam đang nổi lên là nơi chế biến hàng giá trị gia tăng lớn của thế giới. Có những mặt hàng thủy sản mà những quốc gia cạnh tranh với Việt Nam như Ấn Độ, Ecuador không thể sản xuất được. Điều này khiến chuỗi siêu thị ở Mỹ vẫn phải chấp nhận mua mặt hàng thủy sản chế biến của Việt Nam.
Như ngành hàng cá tra Việt đang có sự chuyển biến với chế biến sâu với mặt hàng cá tra tẩm bột, cá tra đóng hộp, surimi từ cá tra đang hiện diện ngày càng rõ rệt tại siêu thị và hệ thống bán lẻ ở nhiều nước. Đây là minh chứng rằng ngành cá tra đang dần chuyển mình, bước sang giai đoạn mới: Giá trị gia tăng, tính tiện lợi và câu chuyện bền vững.
Việc đẩy mạnh chế biến sâu không chỉ nâng giá trị, mà còn giúp cá tra cạnh tranh sòng phẳng hơn với cá rô phi Trung Quốc hay cá minh thái Alaska – những đối thủ vốn có lợi thế truyền thống. Khi người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến chứng nhận bền vững, truy xuất nguồn gốc minh bạch và sản phẩm tiện lợi, thì chế biến sâu chính là “tấm hộ chiếu” để cá tra Việt Nam mở rộng thị phần.
“Chúng tôi nhận thấy đó là một xu hướng dịch chuyển đang mạnh mẽ tại Việt Nam. Và chúng tôi hy vọng các DN xuất khẩu thủy sản sẽ tiếp tục đi theo chiến lược này trong tương lai”, bà Lan nói.
Tuy vậy, để đẩy mạnh chế biến sâu, như lưu ý của vị phó tổng thư ký Vasep, đòi hỏi DN phải có một nguồn lực, một bộ máy để nghiên cứu về thị trường để từ đó tập trung cho nghiên cứu và phát triển (R&D), phát triển vào chuỗi phân phối. Điều này rất cần các DN có sự đầu tư rất nhiều cho mặt hàng chế biến sâu.
Giới chuyên gia chỉ rõ ngành thủy sản Việt đang đứng giữa hai dòng chảy: Áp lực từ các rào cản thương mại và cơ hội từ sự dịch chuyển thị trường. Nếu đẩy mạnh chế biến sâu, đa dạng hóa thị trường và tận dụng các nền tảng kết nối quốc tế thì ngành hàng này hoàn toàn có thể hóa giải được mối nguy thất thu ở thị trường chủ lực như Mỹ.
Bên cạnh đó, để tránh thất thu thì các DN xuất khẩu thủy sản cũng nên quay về thị trường nội địa, phải xem đây là “thị trường thật sự” chứ không phải là giải pháp ngắn hạn khi XK gặp khó.
Về vấn đề này, bà Tô Thị Tường Lan cho rằng trước đây các DN xuất khẩu thủy sản vẫn còn lãng quên thị trường trong nước, thì nay với một thị trường có hơn 100 triệu dân đang có sự chuyển dịch đáng kể cho ngành hàng thủy sản quay về.
Nhất là khi với những biến động khó lường trên thị trường XK, việc chỉ phụ thuộc vào kênh nước ngoài có thể khiến ngành hàng thủy sản dễ rơi vào thế bị động. Do đó, thị trường nội địa không còn là một lựa chọn, mà sẽ là yếu tố sống còn để tránh thất thu, giữ được dòng tiền, duy trì sản xuất, bảo vệ người nuôi và ổn định việc làm.
Thế Vinh-Link gốc