Làn sóng chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn đầu tư vào Việt Nam sẽ tiếp tục mạnh mẽ trong thời gian tới. Đồng thời, các doanh nghiệp FDI cũng sẵn sàng lựa chọn các doanh nghiệp Việt đủ tiêu chuẩn để tham gia vào chuỗi cung ứng của họ.
Đây là nhận định của TS Ngô Phẩm Trân, Tổng Giám đốc Công ty giải pháp phần mềm IIQ, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam - Đài Loan - một người từng nhiều năm là cố vấn, kết nối, xúc tiến thành công các tập đoàn hàng đầu Đài Loan (Trung Quốc) như Foxlink, Arizon, Wieson… đầu tư vào Việt Nam, trong cuộc trao đổi riêng với Vnbusiness.
Bà Phẩm Trân đã có những chia sẻ về xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng của các tập đoàn điện tử, bán dẫn Đài Loan; lợi thế và thách thức của Việt Nam trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI, cũng như mong muốn của doanh nhân kiều bào khi trở về quê hương đầu tư.

TS Ngô Phẩm Trân dành thời gian trò chuyện với Vnbusiness bên lề diễn đàn xúc tiến thương mại và kết nối kinh doanh B2B hôm 3/9.
Bà nhận định thế nào về xu hướng các doanh nghiệp Đài Loan quan tâm đến Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu và chính sách thuế quan mới từ Hoa Kỳ?
Làn sóng các doanh nghiệp điện tử, bán dẫn Đài Loan dịch chuyển sang Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, bắt đầu từ năm 2016. Đến nay, hầu hết các tập đoàn lớn được ví như “top 5 đại bàng” của Đài Loan đều đã đầu tư vào Việt Nam. Tiếp theo, làn sóng chuỗi cung ứng của các tập đoàn này sẽ lần lượt “đổ bộ” nhiều hơn.
Tôi nghĩ đây là một cơ hội lớn. Đặc biệt là trong bối cảnh Chính phủ Việt Nam liên tục cải cách, ban hành những chính sách ưu đãi đột phá để thu hút FDI: cởi mở về pháp lý, tạo điều kiện cho chuyên gia nước ngoài, thúc đẩy đào tạo nhân lực chất lượng cao… Những yếu tố này trở thành “chìa khóa” để Việt Nam hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư công nghệ, kỹ thuật cao.
Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI với các nước trong khu vực, nhà đầu tư Đài Loan nhìn nhận thế nào về môi trường đầu tư ở Việt Nam thưa bà?
Khi làn sóng công nghệ cao, điện tử dịch chuyển về các nước Đông Nam Á, Việt Nam có một số lợi thế. Thứ nhất là vị trí địa lý thuận lợi cho chuỗi cung ứng chưa hoàn thiện ở khu vực. Thứ hai là nguồn nhân lực chất lượng cao dồi dào. Thứ ba là văn hóa tương đồng với Đài Loan.
Đó là ba yếu tố khiến các tập đoàn nước ngoài, đặc biệt là từ Đài Loan, lựa chọn Việt Nam. Nhưng song song với đó vẫn có những rào cản, trở ngại so với các nước lân cận như Thái Lan, Indonesia,..
Đơn cử, số lượng tập đoàn công nghệ cao vào Việt Nam tăng nhanh trong thời gian ngắn đã dẫn đến khan hiếm nhân lực tay nghề cao. Một số doanh nghiệp phải cạnh tranh thu hút nhân lực bằng cách nâng lương, đồng nghĩa với việc một số doanh nghiệp khác đột ngột mất nhân lực. Độ bền vững của nguồn nhân lực là vấn đề làm cho doanh nghiệp hơi "đau đầu" khi đầu tư lâu dài ở Việt Nam.
Theo bà, cần giải pháp gì để khắc phục tình trạng này?
Theo tôi, văn hoá lao động được hình thành từ gia đình và giáo dục tại nhà trường. Do đó, cần tăng cường giáo dục về chữ tín và tính bền bỉ cho học sinh, sinh viên.
Các doanh nghiệp nước ngoài khi tuyển dụng lao động, nhất là cấp chuyên gia, quản lý trở lên, đều sẽ có kênh riêng để kiểm tra. Nếu lý lịch ứng viên chỉ làm mấy tháng rồi đổi việc thì sẽ bị loại ngay ở vòng đầu.
Nhiều bạn trẻ Việt nghĩ ngược lại, cho rằng chuyển việc càng nhiều càng có kinh nghiệm. Đây là sự khác biệt văn hoá cần được định hướng từ giáo dục để tạo nguồn nhân lực ổn định, gắn bó lâu dài.
Có thể hiểu rằng hiện nay các doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân sự cao cấp. Không chỉ cấp cao mà từ trung cấp trở lên. Với ngành công nghệ cao, cần nhiều thời gian đào tạo nhân sự, để họ có thể làm việc độc lập được phải mất tới 5 năm là bình thường.
Như bà vừa nói, sẽ có làn sóng các doanh nghiệp “chim sẻ” tiếp tục đổ bộ vào Việt Nam để phục vụ cho các tập đoàn lớn. Doanh nghiệp Việt Nam trong nước có cơ hội tham gia chuỗi cung ứng này không, thưa bà?
Ngành điện tử đòi hỏi cả một chuỗi cung ứng đồng bộ. Nếu doanh nghiệp Việt đáp ứng đủ tiêu chuẩn thì tập đoàn FDI sẵn sàng lựa chọn ngay. Nhưng hiện nay chưa nhiều doanh nghiệp Việt đủ điều kiện, nên các tập đoàn buộc phải tìm chuỗi cung ứng ở nước ngoài đi vào. Đây là một vấn đề rất nan giải, khó khăn cho nhà đầu tư FDI.
Tôi cho rằng Chính phủ nên có cơ quan dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế để tham gia chuỗi cung ứng. Làm cố vấn cho các tập đoàn lớn, tôi thấy họ sẵn sàng đưa cơ hội này cho doanh nghiệp Việt Nam nếu chúng ta đã có sự chuẩn bị.
Theo bà, vì sao doanh nghiệp Việt chưa đáp ứng được yêu cầu?
- Tôi nghĩ Việt Nam vốn là nước nông nghiệp, trong khi ở nhiều quốc gia khác, nền công nghiệp đã tích lũy qua nhiều thế hệ. Doanh nghiệp Việt mới chỉ là “đời thứ nhất”, startup nhiều, nên thiếu nền tảng công nghệ, chuyên môn và kinh nghiệm đầu tư bài bản.
Được biết, bà cũng đang trở về Việt Nam với tư cách là nhà đầu tư?
- Đúng vậy. Khi làm cố vấn cho nhiều tập đoàn lớn, tôi bắt đầu quay lại Việt Nam thường xuyên hơn, tiếp xúc với các cơ quan Chính phủ. Tôi nhận thấy cần song hành, đồng hành với những doanh nghiệp mình đã đưa vào, trở thành chuỗi cung ứng của họ. Vì vậy tôi trở về Việt Nam phát triển.
Tôi đầu tư công ty giải pháp phần mềm theo chính sách chuyển đổi số của Việt Nam, định hướng phục vụ tệp khách hàng là các tập đoàn FDI đầu tư tại Việt Nam và đã là khách hàng của chúng tôi từ Đài Loan. Đồng thời, tôi cũng muốn song hành với các chính sách chuyển đổi số của Việt Nam, mang công nghệ mà chúng tôi đã phát triển nhiều năm ở nước ngoài về phục vụ quê hương.
Với tư cách là doanh nhân kiều bào, bà có mong muốn gì khi đầu tư trở về Việt Nam?
Với chúng tôi, định nghĩa kiều bào đầu tư hay người Việt ở nước ngoài còn khá mơ hồ về quyền lợi, thủ tục. Có luật sư nói chỉ cần chứng minh là người gốc Việt sẽ được hưởng điều kiện như doanh nghiệp trong nước; luật sư khác lại cho rằng vẫn tính là FDI.
Dù có nhiều thông tin báo chí nói về chính sách hỗ trợ cho kiều bào nhưng chúng tôi không biết làm cách nào để có thể tiếp cận. Chúng tôi mong có một cơ quan chuyên trách chỉ dẫn, với quy định rõ ràng, để hỗ trợ kiều bào đầu tư. Bởi sau nhiều năm xa quê trở về, chúng tôi cũng giống như khởi nghiệp, muốn làm ra sản phẩm “Made in Vietnam” và đưa ra thế giới.
Nếu có quy định rõ ràng để dẫn dắt, chúng tôi sẽ mạnh dạn về Việt Nam phát triển.
Trân trọng cảm ơn bà!
Đỗ Kiều thực hiện
Link gốc