• International Edition
  • Giá trực tuyến: Bật
  • RSS
  • Hỗ trợ
VN-INDEX 1.244,31 +9,61/+0,78%
Biểu đồ thời gian thực
Cập nhật lúc 11:15:00 SA

Stockbiz MetaKit là phần mềm cập nhật dữ liệu phân tích kỹ thuật cho MetaStock và AmiBroker (Bao gồm dữ liệu EOD quá khứ, dữ liệu EOD trong phiên và dữ liệu Intraday trên 3 sàn giao dịch HOSE, HNX, UPCOM)

Stockbiz Trading Terminal là bộ sản phẩm tích hợp đầy đủ các tính năng thiết yếu cho nhà đầu tư từ các công cụ theo dõi giá cổ phiếu realtime tới các phương tiện xây dựng, kiểm thử chiến lược đầu tư, và các tính năng giao dịch.

Kiến thức căn bản

Tổng hợp các kiến thức căn bản về thị trường tài chính, chứng khoán giúp cho bạn có thể tiếp cận đầu tư thuận lợi hơn.

Phương pháp & Chiến lược

Giới thiệu các phương pháp luận sử dụng để phân tính, và các kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc đầu tư.

VN-INDEX    1.244,31   +9,61/+0,78%  |   HNX-INDEX   223,31   +1,06/+0,48%  |   UPCOM-INDEX   92,07   +0,25/+0,27%  |   VN30   1.301,82   +9,88/+0,76%  |   HNX30   475,94   +4,20/+0,89%
26 Tháng Mười Một 2024 11:15:40 SA - Mở cửa
Thừa tiền, ngân hàng có nên 'mạnh tay' giảm lãi suất?
Nguồn tin: Vietnam Finance | 24/10/2020 2:21:40 CH

Một trong những thông tin đáng chú ý trên thị trường tài chính tiền tệ trong khoảng 2 quý trở lại đây là tăng trưởng tín dụng rất thấp so với con số mục tiêu là 14% cả năm 2020. Đây có thể là tiền đề để Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hạ lãi suất điều hành nhưng đa số các phân tích đều cho thấy dư địa hạ lãi suất của các ngân hàng thương mại là không nhiều.

Cả tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng đều thấp so với cùng thời điểm năm 2019.
 
Tín dụng tăng trưởng thấp
 
Theo thống kê mới đây mà Tổng cục Thống kê (TCTK) công bố, tính đến thời điểm 22/9/2020, tổng phương tiện thanh toán tăng 7,74% so với cuối năm 2019 (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,41%); huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 7,7% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,79%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 5,12% (cùng thời điểm năm 2019 tăng 8,51%).
 
Cả tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng đều thấp so với cùng thời điểm năm 2019. Tuy nhiên, đáng chú ý là tổng phương tiện thanh toán tăng cao hơn nhiều so với tín dụng cho thấy cung vốn vào nền kinh tế là rất lớn, dấu hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng đang “thừa tiền”.
 
Từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 3 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành để hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp và người dân làm mặt bằng lãi suất trên thị trường có xu hướng giảm.
 
Mới đây nhất, chiều 30/9, NHNN đã phát đi thông báo điều chỉnh lãi suất điều hành với mức giảm trung bình từ 0,25-0,5%. Cụ thể, điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn từ 4,5%/năm xuống 4,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 3,0%/năm xuống 2,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng từ 5,5%/năm xuống 5%/năm.
 
Điều chỉnh lãi suất tiền gửi tối đa bằng đồng Việt Nam (VND) của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (TCTD) tối đa áp dụng với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 0,2%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 4,25%/năm xuống 4%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng tại Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô giảm từ 4,75%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.
 
Điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016. Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế giảm từ 5%/năm xuống 4,5%/năm; lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của Quỹ tín dụng nhân dân và Tổ chức tài chính vi mô đối với các nhu cầu vốn này giảm từ 6%/năm xuống 5,5%/năm.
 
Trước đó, chiều 12/5 và ngày 16/3, NHNN đã 2 lần quyết định điều chỉnh các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay trên thị trường với mức giảm mỗi lần từ 0,25-0,75% tuỳ từng loại, tuỳ từng kỳ hạn.
 
Thống kê đến 22/9, Tổng cục Thống kê cho thấy, lãi suất trên thị trường đã có xu hướng giảm. Hiện lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,1%-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 3,7%-4,1%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,4%-6,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 6%-7,1%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam đối với một số ngành, lĩnh vực phổ biến ở mức 5%/năm.
 
Giảm lãi suất: Tốt nhưng dư địa không nhiều
 
Trước những ảnh hưởng từ dịch COVID-19, có nhiều ý kiến cho rằng Chính phủ và các cơ quan quản lý cần những chính sách, giải pháp khác quyết liệt hơn để hỗ trợ nền kinh tế. Trên thế giới, Chính phủ các nước đã tiến hành rất nhiều gói giải cứu có quy mô lớn, nhiều giải pháp đặc biệt để vực dậy thị trường tài chính, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Theo thông tin tổng hợp, trong thời gian đại dịch COVID-19 diễn ra, đã có tới 185 lượt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương trên thế giới. Với NHNNViệt Nam, đã có 5 lượt giảm lãi suất điều hành từ tháng 4/2019 đến nay.
 
Tại buổi họp báo thông tin kết quả hoạt động ngân hàng quý 3/2020, Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, chủ trương của NHNN là cố gắng phấn đấu tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Do đó, NHNN điều hành thanh khoản tạo thuận lợi nhất cho các tổ chức tín dụng (TCTD) sẵn sàng có nguồn vốn để cung cấp tín dụng, hạn chế việc tăng lãi suất huy động trên thị trường để lấy nguồn vốn cho vay. Trong trường hợp cần thiết, NHNN sẵn sàng tái cấp vốn cho các TCTD có nguồn cho vay.
 
“Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục theo dõi rất sát những diễn biến kinh tế vĩ mô tiền tệ ngân hàng, căn cứ vào đó và sức khoẻ của hệ thống ngân hàng, mức độ thanh khoản của hệ thống ngân hàng ở những thời điểm khác nhau để quyết định điều chỉnh các công cụ chính sách tiền tệ, trong đó có lãi suất, nếu cần thiết để hỗ trợ nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát và an toàn hệ thống ngân hàng”, Phó Thống đốc khẳng định.
 
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dự địa để các ngân hàng tiếp tục giảm lãi là không nhiều, đặc biệt là với các ngân hàng thương mại. Ông Quản Trọng Thành, Trưởng phòng Phân tích khối ngân hàng - Công ty chứng khoán Maybank KimEng Việt Nam nhận xét: Các ngân hàng đã giảm lãi suất huy động trong tháng 6 và 7 nên chi phí vốn phần nào đã giảm, hỗ trợ các nhà băng giảm lãi suất cho vay. Tuy nhiên, lãi suất đầu vào cũng khó giảm mạnh hơn vì e ngại dòng vốn phần này sẽ chảy sang các kênh đầu tư khác. Trong khi ngân hàng vẫn muốn duy trì biên lợi nhuận thì khả năng giảm mạnh lãi suất nói chung sẽ khó diễn ra.
 
Ông Thành cung cấp thêm, chỉ số biên lợi nhuận (hay chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí phải trả của ngân hàng, gọi tắt NIM) bình quân của các ngân hàng trong 6 tháng đầu năm nay giảm khoảng 0,4%, xuống còn 3,2% so với mức 3,6% vào cuối năm 2019. “NIM sẽ tiếp tục chịu áp lực trong những tháng tới trong bối cảnh cầu tín dụng yếu. Ước tính chỉ số NIM của hệ thống ngân hàng đến cuối năm sẽ giảm về khoảng 3%. Lợi nhuận nửa cuối năm nay của các nhà băng dự báo sẽ tiếp tục giảm nên dư địa giảm lãi từ nguồn này cũng hẹp cửa”, ông Thành nói.
 
Ông Phạm Thế Anh, chuyên gia kinh tế trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) cho rằng thanh khoản hệ thống ngân hàng thời gian gần đây khá tốt nhưng dư địa giảm lãi suất thêm là không nhiều.
 
Cụ thể, lãi suất huy động các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên của các ngân hàng vào khoảng 6 - 7%/năm. Trong khi đó lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm ở mức 4,19%. “Như vậy, chênh lệch giữa lãi suất huy động và lạm phát rất thấp nên muốn cắt giảm lãi suất cần phải giảm được tỷ lệ lạm phát trong thời gian tới. Nếu không, người gửi tiền sẽ tìm cách chuyển dịch dòng vốn sang các kênh tài sản khác như bất động sản, chứng khoán, vàng, ngoại tệ”, ông Phạm Thế Anh nhấn mạnh.