• International Edition
  • Giá trực tuyến: Bật
  • RSS
  • Hỗ trợ
VN-INDEX 1.249,83 -1,38/-0,11%
Biểu đồ thời gian thực
Cập nhật lúc 3:05:01 CH

Stockbiz MetaKit là phần mềm cập nhật dữ liệu phân tích kỹ thuật cho MetaStock và AmiBroker (Bao gồm dữ liệu EOD quá khứ, dữ liệu EOD trong phiên và dữ liệu Intraday trên 3 sàn giao dịch HOSE, HNX, UPCOM)

Stockbiz Trading Terminal là bộ sản phẩm tích hợp đầy đủ các tính năng thiết yếu cho nhà đầu tư từ các công cụ theo dõi giá cổ phiếu realtime tới các phương tiện xây dựng, kiểm thử chiến lược đầu tư, và các tính năng giao dịch.

Kiến thức căn bản

Tổng hợp các kiến thức căn bản về thị trường tài chính, chứng khoán giúp cho bạn có thể tiếp cận đầu tư thuận lợi hơn.

Phương pháp & Chiến lược

Giới thiệu các phương pháp luận sử dụng để phân tính, và các kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc đầu tư.

VN-INDEX    1.249,83   -1,38/-0,11%  |   HNX-INDEX   225,29   -0,03/-0,02%  |   UPCOM-INDEX   92,44   0,00/0,00%  |   VN30   1.309,18   +0,35/+0,03%  |   HNX30   482,13   +0,21/+0,04%
04 Tháng Mười Hai 2024 12:29:52 SA - Mở cửa
Tiền đổ về nhiều nhưng thanh khoản vẫn “nóng”
Nguồn tin: VietNam Finance | 29/10/2024 4:51:37 CH

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết, tính đến thời điểm 27/9/2024, huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 4,79% trong khi tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 8,53%. Hay nói cách khác, tăng trưởng tín dụng đang cao hơn khoảng 3,7% so với tăng trưởng huy động vốn.

​​​​​​​

Mạnh tay bơm tiền

Diễn biến trên thị trường cho thấy, chênh lệch lãi suất VNĐ - USD tại các kỳ hạn ngắn qua đêm - 1 tuần trong quý III tiếp tục có xu hướng đi ngang ở mức thấp, khi cả lãi suất VNĐ và lãi suất USD đều có xu hướng giảm nhẹ. Đối với lãi suất USD liên ngân hàng, sau một thời gian dài đi ngang ở mức 5,3-5,4%/năm đã giảm khoảng 50 điểm về quanh mức 4,8-4,9%/năm, sau động thái hạ lãi suất cơ bản 50 điểm của Fed trong phiên họp tháng 9 vừa qua. Đối với lãi suất VNĐ liên ngân hàng, mặt bằng lãi suất cũng có xu hướng giảm khoảng 50-60 điểm so với cuối quý II, dao động chủ đạo quanh vùng lãi suất định hướng OMO, tín phiếu.

Một lãnh đạo cao cấp BIDV nhận định, yếu tố hỗ trợ lãi suất VNĐ liên ngân hàng giảm trong quý III là sự dịch chuyển của chính sách tiền tệ NHNN theo hướng nới lỏng rõ nét hơn khi áp lực tỷ giá và quốc tế hạ nhiệt đáng kể. Cụ thể, NHNN đã có những động thái như hạ lãi suất OMO từ 4,5% về 4%/năm, ngừng bán và dừng hút tín phiếu kể từ tháng 8, đồng thời tăng cường bơm ròng hỗ trợ thanh khoản qua kênh thị trường mở cũng như kênh tiền gửi Kho bạc Nhà nước.

Quả vậy, trong bối cảnh áp lực tỷ giá giảm, NHNN vẫn đang tiếp tục tích cực hỗ trợ hệ thống ngân hàng trong tháng 9, nhằm hạ mặt bằng lãi suất liên ngân hàng. Tính đến ngày 30/9, tổng giá trị tiền ròng NHNN bơm vào hệ thống ước khoảng 128,2 nghìn tỷ đồng với mức lãi suất 4% - 4.25%, kỳ hạn 7 ngày, trong đó bao gồm 22 nghìn tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã chủ động dừng phát hành tín phiếu kể từ cuối tháng 8. Ngoài ra, trong bối cảnh tỷ giá ổn định, Kho bạc Nhà nước đã phát đi thông báo về nhu cầu mua ngoại tệ từ các NHTM với khối lượng dự kiến tối đa là 350 triệu USD trong tháng 9. Theo đó, động thái này sẽ giúp tăng thanh khoản hệ thống thêm khoảng 5.8 nghìn tỷ đồng.

Tuy nhiên, lãi suất qua đêm từ mức 4,3% vào đầu tháng 9 đã giảm mạnh về mức 3% - mức thấp nhất trong 2 tháng trở lại đây và đột ngột tăng vọt lên mức 4,3% trong tuần cuối cùng của tháng. Sự bật tăng này được cho là do áp lực thanh khoản gia tăng trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang phục hồi ổn định.

“Thanh khoản VNĐ của hệ thống ngân hàng nhìn chung vẫn kém dồi dào và phụ thuộc lớn vào các dòng tiền hỗ trợ từ các kênh thị trường mở và tiền gửi Kho bạc Nhà nước. Đặc biệt, trong tương quan giữa huy động vốn - tín dụng cũng tiếp tục có xu hướng thu hẹp khi tăng trưởng huy động vốn kém tích cực hơn so với tăng trưởng tín dụng”, vị lãnh đạo BIDV nêu quan điểm.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 27/9/2024, tín dụng đã tăng trưởng 8,53% so với cuối năm 2023, cao hơn khoảng 3,7% so với tăng trưởng huy động vốn. Đây cũng là yếu tố khiến cho lãi suất VNĐ liên ngân hàng cũng như chênh lệch lãi suất VNĐ - USD liên ngân hàng chưa thể giảm mạnh trong quý III.

Ông Lê Hoài Ân, CFA Founder IFSS - Công ty cổ phần Giải pháp tài chính tích hợp nêu quan điểm, không phải đến bây giờ mà từ đầu năm 2024, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã vượt qua tốc độ tăng trưởng huy động, tạo ra áp lực lớn lên thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Cụ thể, tính đến tháng 6/2024, tăng trưởng tín dụng đạt 8,5% trong khi tăng trưởng huy động chỉ ở mức 6%. Điều này khiến nhiều ngân hàng phải đối mặt với tình trạng căng thẳng thanh khoản, buộc phải tìm kiếm nguồn vốn từ các kênh khác nhau để duy trì hoạt động.

“Do vậy, hoạt động bơm ròng của NHNN trong thời gian này là cần thiết để tránh những rủi ro liên quan đến khả năng thanh toán và ngăn chặn sự gia tăng lãi suất quá mức. Thực tế, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đã bật tăng mạnh từ đầu năm 2024, khi doanh số giao dịch liên ngân hàng cũng bật tăng mạnh. Điều này xảy ra khi các ngân hàng có nhu cầu vay mượn lẫn nhau nhiều hơn để duy trì thanh khoản và đảm bảo hoạt động cho vay ra, khiến lãi suất tăng để cân bằng cung cầu vốn. Ngược lại, khi khối lượng giao dịch giảm, lãi suất cũng bắt đầu tạo đỉnh và trở về mức ổn định, dao động trong khoảng 4-5% hiện tại, phản ánh thanh khoản được cải thiện”, ông Ân nói.

Lãi suất sẽ tiếp tục tăng

Áp lực thanh khoản khiến một số ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ, gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Những ngân hàng có quy mô nhỏ thường có ít khách hàng gửi tiền và phụ thuộc nhiều vào thị trường liên ngân hàng để duy trì thanh khoản. Trong giai đoạn này, các ngân hàng này đã phải tăng lãi suất huy động lên mức 7-8%/năm để thu hút nguồn vốn. Lãi suất huy động ở cả thị trường 1 và thị trường 2 (thị trường liên ngân hàng) đều gia tăng góp phần làm gia tăng chi phí vốn của ngân hàng, từ đó khiến cho việc giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, điều này đã làm gia tăng chi phí vốn và ảnh hưởng đến lợi nhuận.

Do đó, ông Ân cho rằng, việc NHNN tăng cường điều tiết tăng lượng cung tiền vào hệ thống qua kênh OMO đã giúp giảm bớt áp lực này, duy trì thanh khoản ổn định và tránh những hệ lụy tiêu cực có thể xảy ra đối với hệ thống tài chính. Những động thái này không chỉ giúp ổn định tỷ giá mà còn đảm bảo khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, những áp lực từ thị trường quốc tế vẫn còn tồn tại, đòi hỏi NHNN phải tiếp tục linh hoạt trong việc điều chỉnh cung tiền và sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ một cách hiệu quả để duy trì sự ổn định của nền kinh tế trong những tháng cuối năm.

Trong diễn biến có liên quan, bà Trần Thị Khánh Hiền, Giám đốc Khối Nghiên cứu của Chứng khoán MB (MBS) nhận định sự phục hồi của tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh sản xuất và đầu tư tăng tốc mạnh hơn vào những tháng cuối năm, sẽ phần nào gây áp lực lên thanh khoản hệ thống và có thể dẫn đến việc tăng lãi suất đầu vào. Ở chiều ngược lại, việc lạm phát ở mức thấp và FED hạ lãi suất được kỳ vọng sẽ tạo thêm dư địa cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ tại Việt Nam. Dựa vào các yếu tố trên, phía MBS dự báo lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại lớn sẽ có thể nhích thêm 20 điểm cơ bản, dao động quanh mức 5,1% - 5,2% vào cuối năm 2024.

Đồng quan điểm, lãnh đạo BIDV nhận định trạng thái thanh khoản VNĐ dự kiến vẫn sẽ chưa dồi dào do tình trạng suy yếu nguồn vốn khả dụng vẫn diễn ra trên diện rộng tại nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt là về cuối năm khi thường chịu áp lực do nhu cầu thanh toán bằng tiền mặt có xu hướng gia tăng theo chu kỳ. Ước tính cân đối huy động vốn - tín dụng có thể cải thiện nhẹ trong quý IV nhưng tính chung cả năm, tăng trưởng huy động vẫn thấp hơn so với tăng trưởng tín dụng khoảng 2-3%. Do đó, nhìn chung lãi suất VNĐ liên ngân hàng chưa thể giảm sâu và dự kiến vẫn dao động chủ đạo quanh vùng lãi suất OMO.

Mai Dung-Link gốc