• International Edition
  • Giá trực tuyến: Bật
  • RSS
  • Hỗ trợ
VN-INDEX 1.239,26 -12,45/-0,99%
Biểu đồ thời gian thực
Cập nhật lúc 3:05:01 CH

Stockbiz MetaKit là phần mềm cập nhật dữ liệu phân tích kỹ thuật cho MetaStock và AmiBroker (Bao gồm dữ liệu EOD quá khứ, dữ liệu EOD trong phiên và dữ liệu Intraday trên 3 sàn giao dịch HOSE, HNX, UPCOM)

Stockbiz Trading Terminal là bộ sản phẩm tích hợp đầy đủ các tính năng thiết yếu cho nhà đầu tư từ các công cụ theo dõi giá cổ phiếu realtime tới các phương tiện xây dựng, kiểm thử chiến lược đầu tư, và các tính năng giao dịch.

Kiến thức căn bản

Tổng hợp các kiến thức căn bản về thị trường tài chính, chứng khoán giúp cho bạn có thể tiếp cận đầu tư thuận lợi hơn.

Phương pháp & Chiến lược

Giới thiệu các phương pháp luận sử dụng để phân tính, và các kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc đầu tư.

VN-INDEX    1.239,26   -12,45/-0,99%  |   HNX-INDEX   230,84   -1,58/-0,68%  |   UPCOM-INDEX   92,57   -0,38/-0,41%  |   VN30   1.281,37   -12,93/-1,00%  |   HNX30   498,07   -6,06/-1,20%
17 Tháng Chín 2024 3:10:43 SA - Mở cửa
Chính sách tiền tệ giai đoạn 2019-2024: Hỗ trợ nền kinh tế vượt qua các cú sốc
Nguồn tin: Vneconomy | 26/08/2024 3:27:41 CH

Giai đoạn 2019-2024 là thời kỳ kinh tế thế giới và khu vực gặp nhiều khó khăn, diễn biến khó lường, rủi ro gia tăng do đại dịch bùng phát trên toàn cầu và căng thẳng địa chính trị leo thang. Trong bối cảnh đó, chính sách tiền tệ góp phần tích cực kiểm soát lạm phát, đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô; kết hợp với quá trình tái cấu trúc hệ thống các tổ chức tín dụng đã góp phần tích cực khơi thông nguồn tài lực cho phát triển kinh tế-xã hội...

Nhiều khó khăn trong xử lý nợ xấu khiến nguồn lực phát triển kinh tế xã hội bị ách tắc.

Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam là phụ thuộc chủ yếu vào vốn tín dụng ngân hàng. Năm 2023, với quy mô tín dụng đạt hơn 13,5 triệu tỷ đồng, tỷ lệ tín dụng/GDP đạt khoảng 130%, thuộc nhóm các nước có tỷ lệ này cao nhất; trong khi đó, quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán đạt khoảng 6,66 triệu tỷ đồng, so với GDP đạt khoảng 65,2%; quy mô thị trường trái phiếu đạt khoảng 35,77% GDP (trái phiếu chính phủ) đạt khoảng 23% GDP, trái phiếu doanh nghiệp đạt 12,77% GDP; toàn ngành bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế chưa đầy 7,5% GDP. Theo đó, ngành ngân hàng, với sự vận hành của hệ thống các tổ chức tín dụng dưới sự quản lý, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước; được ví như “huyết mạch” của nền kinh tế.

KIỂM  SOÁT LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH VỊ THẾ VND

Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, thận trọng góp phần kiểm soát lạm phát trong 5 năm 2019-2024 là một trong những thành công lớn nhất trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều bất ổn, lạm phát toàn cầu tăng cao.

Từ năm 2019 đến nay, lạm phát tổng thể được kiểm soát dưới 4% (2019: 2,79%; 2020: 3,23%; 2021: 1,84%; 2022: 3,15%; 2023: 3,25%), góp phần quan trọng trong việc đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và chất lượng cuộc sống, an sinh xã hội cho người dân. Đây là thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát toàn cầu có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây, đạt đỉnh trong năm 2022 (8,73%), với sự gia tăng của giá năng lượng, lương thực - thực phẩm, nguyên, vật liệu sản xuất.

Để đạt được kết quả trên, chính sách tiền tệ đã có những đóng góp tích cực trên nhiều khía cạnh: (i) lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn, vừa hỗ trợ kiểm soát lạm phát trong giai đoạn áp lực (năm 2022), vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn lạm phát toàn cầu bớt căng thẳng hơn (2023-2024); (ii) điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt, ổn định thị trường ngoại hối, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; (iii) điều hành tín dụng an toàn, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế được khắc phục về căn bản, các mục tiêu về tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng dư nợ tín dụng, hay tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán đều có khả năng đạt được

Tỷ lệ tín dụng ngoại tệ/tổng dư nợ tín dụng cuối năm 2019 đạt 5,87%, đến cuối tháng 7/2024 chỉ còn khoảng 3,4%; tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán cuối năm 2019 đạt 8,35%, đến cuối tháng 7/2024 còn 6,29% cho thấy tình trạng đôla hóa trong nền kinh tế, tính cả trên góc độ tiền vay lẫn tiền gửi đều tiếp tục được cải thiện; phấn đấu tiền gửi ngoại tệ/tổng phương tiện thanh toán dưới 5% ở năm 2030.

Từ năm 2019 đến tháng 6/2024, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt, đồng bộ trong khung khổ chính sách tiền tệ chung nhằm đạt mục tiêu xuyên suốt, nhất quán kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt theo hai chiều tăng/giảm, phù hợp với tình hình thị trường và mục tiêu chính sách tiền tệ, góp phần hấp thụ các cú sốc từ bên ngoài; thị trường xác định tỷ giá USD/VND trong biên độ +/-5% (trước tháng 10/2022 là +/-3%) so với tỷ giá trung tâm.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng linh hoạt thực hiện mua, bán can thiệp ngoại tệ trên thị trường với các hình thức đa dạng khi cần thiết nhằm bổ sung dự trữ ngoại hối, giúp chuyển hóa nguồn lực thành tiền đồng để hỗ trợ phát triển kinh tế; hay nhằm hỗ trợ thanh khoản cho thị trường, ổn định tâm lý thị trường, đảm bảo hoạt động thông suốt của thị trường ngoại tệ.

Nhìn chung, giai đoạn từ năm 2019 đến tháng 6/2024, mặc dù phải đối mặt với những thách thức chưa từng có do thị trường tài chính thế giới có nhiều biến động nhưng tỷ giá USD/VND về cơ bản diễn biến linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường, thị trường ngoại tệ duy trì ổn định, thanh khoản thị trường thông suốt; qua đó, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

TĂNG  HIỆU QUẢ PHÂN BỔ VỐN TÍN DỤNG

Vốn tín dụng ngân hàng luôn được cung ứng đầy đủ, kịp thời cho sản xuất, kinh doanh, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.

Giai đoạn 2007-2011, có những thời điểm tín dụng tăng rất cao (51,54% năm 2007, 37,53% năm 2009, 31,19% năm 2010), nhưng từ năm 2012 đến nay và đặc biệt trong 5 năm gần đây, tín dụng đã đạt mức tăng trưởng phù hợp với khả năng hấp thụ của nền kinh tế (khoảng 13,48%/năm), cho thấy hiệu quả phân bổ vốn tín dụng đã tăng lên rõ rệt. Tăng trưởng tín dụng thấp hơn, trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn đạt được thành tựu đáng ghi nhận, là minh chứng rõ cho sự gia tăng của hiệu quả phân bổ vốn tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế.

Giai đoạn 2007-2011, tăng trưởng tín dụng đều ở mức trên 30%, thậm  chí  50%/năm. Nhưng  trong 5 năm gần đây, tăng trưởng tín dụng khoảng 13,48%/năm. Tăng trưởng tín dụng thấp hơn, trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn đạt được thành tựu đáng ghi nhận cho  thấy hiệu quả phân bổ vốn tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế.

Trên cơ sở các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát được Quốc hội và Chính phủ đề ra, hàng năm Ngân hàng Nhà nước xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng toàn hệ thống, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Năm 2024, Ngân hàng Nhà nước thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các tổ chức tín dụng ngay từ đầu năm và trong năm rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các tổ chức tín dụng trên cơ sở tình hình tài chính, khả năng quản trị điều hành, khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh của tổ chức tín dụng và tình hình thực tế. 

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần đẩy lùi tín dụng đen.

Giai đoạn 2019-2024, thanh khoản của hệ thống các tổ chức tín dụng được đảm bảo, ngay cả trong tình huống khó khăn nhất. Ngành ngân hàng đứng vững và đi qua được các thời điểm nhạy cảm, đảm bảo an toàn hoạt động cho cả hệ thống.

TỒN TẠI, HẠN CHẾ CẦN KHẮC PHỤC

Bên cạnh các mặt đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế mang tính cố hữu, nội tại từ nền kinh tế mà ngành ngân hàng cùng với nền kinh tế cần tiếp tục khắc phục.

Thứ nhất, chất lượng tín dụng suy giảm, nhất là trong bối cảnh diễn biến kinh tế trong và ngoài nước kém thuận lợi. Giai đoạn 2019-2024 là giai đoạn kinh tế quốc tế khó khăn, diễn biến khó lường, rủi ro gia tăng khiến kinh tế trong nước cũng diễn biến không thuận lợi. Trong bối cảnh đó, chất lượng tín dụng suy giảm, nợ xấu hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng nhanh.

Mặc dù Nghị quyết số 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu đã đạt được kết quả tích cực, Đề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng cũng đạt được những kết quả nhất định; tuy nhiên, do chất lượng tài sản của các doanh nghiệp giảm sút, sản xuất kinh doanh đình trệ nên đã tác động nhất định đến nợ xấu ngân hàng. Ngành ngân hàng xác định xử lý nợ xấu là nhiệm vụ trọng tâm của ngành, cần tiếp tục thực hiện để khơi thông nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, quản trị rủi ro của một số ngân hàng thương mại chưa đáp ứng được yêu cầu của Ủy ban Basel và thông lệ quốc tế. Việc hoạch định chiến lược tại một số ngân hàng thương mại còn khá đơn giản, hầu hết chỉ mang nội dung định hướng phát triển chung, chưa đưa ra được một danh mục, kế hoạch cụ thể; chưa có một hệ thống đo lường rủi ro phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ ba, các kênh huy động vốn khác của thị trường vốn (trái phiếu doanh nghiệp, chứng khoán) chưa phát huy hiệu quả, còn tồn tại một số vấn đề và chưa phát triển tương xứng với vai trò cung ứng vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế, nên nhu cầu vốn cho phục hồi tăng trưởng kinh tế tập trung phần lớn vào tín dụng ngân hàng; tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam có xu hướng tăng, ở mức cao, tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống các tổ chức tín dụng.

Thứ tư, sự phát triển của công nghệ được ứng dụng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng đã đem lại nhiều tiện ích, dịch vụ mới nhưng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn thanh toán ngân hàng...

Link gốc