• International Edition
  • Giá trực tuyến: Bật
  • RSS
  • Hỗ trợ
VN-INDEX 1.305,36 -2,44/-0,19%
Biểu đồ thời gian thực
Cập nhật lúc 3:05:02 CH

Stockbiz MetaKit là phần mềm cập nhật dữ liệu phân tích kỹ thuật cho MetaStock và AmiBroker (Bao gồm dữ liệu EOD quá khứ, dữ liệu EOD trong phiên và dữ liệu Intraday trên 3 sàn giao dịch HOSE, HNX, UPCOM)

Stockbiz Trading Terminal là bộ sản phẩm tích hợp đầy đủ các tính năng thiết yếu cho nhà đầu tư từ các công cụ theo dõi giá cổ phiếu realtime tới các phương tiện xây dựng, kiểm thử chiến lược đầu tư, và các tính năng giao dịch.

Kiến thức căn bản

Tổng hợp các kiến thức căn bản về thị trường tài chính, chứng khoán giúp cho bạn có thể tiếp cận đầu tư thuận lợi hơn.

Phương pháp & Chiến lược

Giới thiệu các phương pháp luận sử dụng để phân tính, và các kỹ năng cần thiết phục vụ cho việc đầu tư.

VN-INDEX    1.305,36   -2,44/-0,19%  |   HNX-INDEX   239,19   -0,20/-0,08%  |   UPCOM-INDEX   99,58   -0,23/-0,23%  |   VN30   1.356,43   -7,19/-0,53%  |   HNX30   503,71   -1,11/-0,22%
01 Tháng Ba 2025 8:04:54 CH - Mở cửa
Chuyên gia 'hiến kế' để Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng 8%
Nguồn tin: Thời báo kinh doanh | 01/03/2025 4:43:15 CH

Giữa bối cảnh thách thức từ kinh tế toàn cầu, các chuyên gia quốc tế và trong nước vẫn lạc quan và đưa ra dự báo Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tới. Song, để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao và nâng hạng tín nhiệm quốc gia, các chuyên gia gợi ý những lĩnh vực là động lực tăng trưởng của Việt Nam.

Quốc hội Việt Nam đã nâng mục tiêu tăng trưởng năm 2025 lên ít nhất 8% và đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số cho giai đoạn 2026-2030, trong khi dự báo chính thức vẫn duy trì ở mức 6,5 - 7%.

Theo tính toán của Bộ Tài chính, để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên, dự kiến cần hơn 4 triệu tỷ đồng, tương đương 160 tỷ USD, cung ứng ra nền kinh tế. Nguồn vốn này dự kiến huy động từ đầu tư công, FDI, tư nhân…

Ông Louis Kuijs, Kinh tế trưởng, Khu Vực Châu Á - Thái Bình Dương, S&P Global Ratings nhận định Việt Nam đã trải qua một chặng đường phát triển ấn tượng trong nhiều thập kỷ qua.

“Bất chấp những biến động toàn cầu, nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình 6,2% trong 10 năm qua. Tiếp nối xu hướng phát triển xuất khẩu của các nền kinh tế Đông Á, Việt Nam đã tận dụng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) như một đòn bẩy quan trọng – tương tự như cách Trung Quốc làm trong giai đoạn hậu cải cách năm 1978. Năm 2024, giá trị xuất khẩu của Việt Nam tương đương 79% GDP, trong khi FDI đăng ký đạt 8% GDP”, ông Kuijs nhấn mạnh.

Các chuyên gia tin tưởng Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8%

Tuy nhiên, vị chuyên gia này cho rằng những khó khăn cũng không nhỏ. Cụ thể, thách thức chính là rủi ro đến từ thuế quan thương mại của Mỹ khi mà thặng dư thương mại song phương của Việt Nam với quốc gia này ở quy mô lớn. Ngoài ra, thương mại của Việt Nam phụ thuộc lớn vào những “cơn gió ngược” của toàn cầu hóa.

Mặc dù vậy, chuyên gia S&P Global Ratings vẫn giữ quan điểm lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam."Chúng tôi dự báo mức tăng trưởng GDP của Việt Nam khoảng 6,5% trong 3 năm tới, đủ sức cạnh tranh với Ấn Độ trong cuộc đua trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á," ông Kuijs nói.

Trong dài hạn, ông Kuijs cho rằng Việt Nam cần giải bài toán cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị, chuyển mình thành một trung tâm sản xuất các mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Muốn vậy, Việt Nam cần thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao môi trường kinh doanh, gia tăng tính cạnh tranh trong ngành dịch vụ và đặc biệt đồng thời đầu tư mạnh vào chất lượng nhân lực.

"Nếu làm được, Việt Nam không chỉ duy trì đà tăng trưởng mà còn đặt nền móng cho một nền kinh tế tăng trưởng bền vững" ông Kuijs nói.

Trong khi đó, nhận định về mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Ngân hàng UOB cho rằng Việt Nam đặt mức tăng trưởng cao 8% hoặc thậm chí hai con số là hoàn toàn có thể, như kinh nghiệm của Singapore và Trung Quốc, đặc biệt khi Việt Nam đã có động lực tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2024 với mức tăng trưởng trên 7%.

Tuy nhiên, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP mới, ông Suan Teck Kin, Giám đốc Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB, cho rằng Chính phủ cần tập trung vào một số lĩnh vực nhằm nâng cao cơ hội đạt mức tăng trưởng 8% hoặc thậm chí hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng cần ổn định để tránh tình trạng "quá nóng" và lãng phí nguồn lực.

“Một trong những giải pháp quan trọng là tăng mạnh đầu tư công để hỗ trợ tăng trưởng và giảm tác động từ sự suy giảm trong xuất khẩu và sản xuất. Hiện tại, Việt Nam vẫn thiếu hụt đáng kể về hạ tầng”, chuyên gia UOB khuyến nghị.

Theo dữ liệu từ IMF, tỷ lệ chi tiêu cho hình thành vốn của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 30% GDP, thấp hơn nhiều so với mức 41% của Trung Quốc.

Bên cạnh đó, chính sách tài khóa của Việt Nam đang quá thận trọng ở giai đoạn phát triển hiện nay, khi Chính phủ đặt mục tiêu giảm tỷ lệ nợ công/GDP từ 35% hiện tại xuống 31% vào năm 2029. “Để tăng đầu tư công, có thể cần phải chấp nhận tăng vay nợ và sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn”, ông Suan Teck Kin nhận định.

Tuy nhiên, ông Suan Teck Kin lưu ý về tốc độ giải ngân và thực hiện đầu tư công. Ngay cả khi ngân sách đã được phân bổ cho các dự án hạ tầng, quá trình triển khai cần được đẩy nhanh để vừa tạo động lực tăng trưởng ngắn hạn trong khi đầu tư được thực hiện, vừa nâng cao năng suất dài hạn sau khi dự án hoàn thành.

“Điểm sáng là gần đây Quốc hội Việt Nam đã thông qua dự án đường sắt trị giá 8 tỷ USD kết nối Trung Quốc - Việt Nam, sắp hoàn thành mở rộng đường cao tốc Bắc-Nam cũng như tăng ngân sách cho Bộ Giao thông Vận tải”, ông Suan Teck Kin nhận định.

Ngoài ra, Việt Nam vẫn cần đầu tư mạnh vào các lĩnh vực hạ tầng quan trọng khác, đặc biệt là AI/dữ liệu, năng lượng, nguồn nước,... để hỗ trợ tăng trưởng bền vững trong tương lai.

Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8%, ông Trần Hoàng Ngân, Đại biểu quốc hội, trợ lý Bí thư thành ủy TP.HCM, tin tưởng mục tiêu này có thể đạt được, bởi Việt Nam đã có những năm tăng trưởng rất cao như giai đoạn 1992-1996, giai đoạn 2002-2007, giai đoạn 2015-2019 kinh tế tăng trưởng 6,8-7%/năm, riêng hai năm 2018-2019 tăng trưởng trên trên 7,4%/năm. Sau đó gặp đại dịch COVID-19, kinh tế suy giảm sâu, hai năm 2020-2021 tăng trưởng 2,6%-2,9%/năm.

Để thực hiện mục tiêu trên, ông Ngân cho rằng cần có thể chế thông thoáng, thông minh. Cơ chế thu hút nhân lực chất lượng cao. Đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ.Đồng thời phát huy 3 động lực tăng trưởng truyền thống: đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu.

Về đầu tư, theo mục tiêu cũ năm 2025 tăng trưởng 6,5-7%/năm với tổng vốn đầu tư xã hội là 171 tỷ USD, trong đó đầu tư công 33 tỷ USD. Mục tiêu mới tăng trưởng 8%, tổng vốn đầu tư xã hội là 174 tỷ USD trong đó đầu tư công 36 tỷ USD, tăng thêm 9%.

Theo số liệu thống kê trước đây, khi đầu tư công tăng thêm 10% sẽ góp phần tăng trưởng GDP khoảng 0,6%. Vì khu vực dân doanh chiếm trên 55% tổng vốn đầu tư xã hội, do đó phải có gói giải pháp đồng bộ để huy động vốn, đầu tư từ khu vực dân doanh: giảm tiền thuê đất, phí, thuế, bảo lãnh tín dụng, lãi suất tín dụng hợp lý…

Đồng thời, chuyên gia này cho rằng cần khởi động nhanh 3 động lực mới theo tinh thần Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị: phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

“Chú ý các chế độ đặc thù cho Trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM và Đà Nẵng, hệ thống đường sắt đô thị Hà Nội và TP.HCM”, ông Ngân lưu ý.

Để tăng trưởng nhanh, bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát trong điều hành vĩ mô, ông Ngân khuyến nghị chính sách tài khóa chặt chẽ, tiết kiệm chi thường xuyên, ưu tiên vốn đầu tư phát triển nhưng chú ý hiệu quả đầu tư công, không đầu tư dàn trải, dở dang, gây lãng phí…

“Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cần tập trung quyết liệt tận dụng tài sản công, đất công (có phần mất kiểm soát) để đưa vào sử dụng, khai thác hoặc đấu giá để có vốn cho đầu tư phát triển...”, ông nói.

Nợ công có thể phải tăng nhưng không để tăng nhanh như những năm trước đây (giai đoạn 2006-2011 bội chi cao trên 5%/năm, nợ công tăng nhanh 2001 là 36%/GDP, 2010 là 54-55% GDP…)

Chính sách tiền tệ linh hoạt theo mục tiêu tăng trưởng và lạm phát. Điều hành lãi suất theo lạm phát cơ bản đảm bảo chất lượng tín dụng không để khối u nợ xấu quay trở lại.

Cung tiền và tăng trưởng tín dụng có kiểm soát, không để tăng quá cao như giai đoạn 2000-2010 (dư nợ tăng bình quân 30%/năm, kinh tế tăng trưởng 7,3%), cùng với nhập siêu, tỉ giá… lạm phát tăng cao (23% năm 2008, 18,6% năm 2011) dễ gây bất ổn kinh tế vĩ mô.

Đầu tư nghiêm túc (nhân lực, tài lực) cho công tác dự báo từ xa về kinh tế thế giới, địa chính trị, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… để có giải pháp ứng phó kịp thời, linh hoạt... giảm tổn thất cho người dân và nền kinh tế.

Thanh Hoa-Link gốc