Sẽ khó tránh khỏi tình cảnh các doanh nghiệp nội địa tiếp tục rơi vào khó khăn trong thời gian tới khi mà xung đột thương mại càng lúc càng phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Điều chờ đợi là họ nên có chiến thuật “phòng ngự chắc”, củng cố thị phần trên thị trường “sân nhà” để không phải rời khỏi cuộc chơi khi mà mỗi tháng cả nước có hơn 33,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
Mới đây, Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ có công văn gửi các hiệp hội liên quan đến vấn đề logistic và tàu biển do Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) điều tra với Trung Quốc (sẽ tổ chức phiên điều trần về vấn đề này vào ngày 24/3/2025).
Nhìn từ rủi ro của doanh nghiệp logistics
Theo đó, đáng chú ý là một loạt đề xuất của USTR như: Thu phí lên tới 1 triệu USD cho mỗi lần cập bến đối với tàu do một công ty Trung Quốc vận hành; thu phí lên tới 1,5 triệu USD cho mỗi lần cập cảng đối với tàu do Trung Quốc sản xuất, bất kể nhà khai thác; thu phí lên tới 1 triệu USD cho mỗi lần cập bến của các nhà khai thác tàu dựa trên số lượng đơn đặt hàng tàu mới mà họ hiện có với các nhà máy đóng tàu Trung Quốc...

Các DN logistics của Việt Nam cần theo dõi sát biến động trên thị trường vận tải biển trong thời gian tới để có chiến lược “phòng ngự” phù hợp.
Như đánh giá của phía Thương vụ và một số công ty tư vấn luật, đề xuất của USTR nếu áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí dịch vụ logistics và vận hành của các công ty vận tải biển quốc tế, trong đó có Việt Nam.
Trong khi đó, theo dự báo từ một số hãng vận tải biển, trong tháng 3 và các tháng tiếp theo của năm 2025 thị trường vận tải biển có thể sẽ tiếp tục biến động. Nguyên nhân là do ảnh hưởng từ chiến tranh và xung đột thương mại giữa các quốc gia làm gián đoạn tuyến vận tải, tác động từ các liên minh hãng tàu khi một số hãng tàu điều chỉnh chiến lược khai thác tuyến đường.
Như trong tháng 3/2025, tình trạng tắc nghẽn cảng biển được cho là vẫn diễn ra tại các cảng lớn, đặc biệt là tại châu Âu và Mỹ, gây ảnh hưởng đến thời gian vận chuyển hàng hóa. Rồi vấn đề chi phí nhiên liệu tăng khiến giá cước vận tải chưa thể giảm mạnh dù nhu cầu có xu hướng ổn định. Và điều đáng lo là giá cước vận tải biển trong thời gian tới sẽ vẫn ở mức cao do chi phí nhiên liệu và sự điều chỉnh của các hãng tàu.
Cho nên, các doanh nghiệp (DN) của Việt Nam có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu cần lưu tâm đến vấn đề nêu trên. Nhất là chủ động theo dõi diễn biến giá cước để có chiến lược “phòng ngự” phù hợp.
Riêng bản thân các DN nội địa trong lĩnh vực logistics hay cảng biển cũng không được lơ là trước biến động này. Chẳng hạn với việc cạnh tranh giữa các cảng biển trong khu vực sẽ gia tăng, đòi hỏi các DN logistics của Việt Nam phải cải thiện dịch vụ và công nghệ, tối ưu quy trình logistics và ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả vận hành và tăng sức cạnh tranh. Họ cũng cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số vào quản lý chuỗi cung ứng, giúp tối ưu chi phí vận hành.
Còn nếu như chủ quan lơ là và chậm thay đổi, khó khăn sẽ đến với các DN trong nước càng nhanh hơn. Đơn cử như các DN nội địa trong mảng logistics kho lạnh được cho là đối mặt với nhiều thách thức lớn như chi phí vận hành cao, thiếu sự tối ưu trong quy trình bảo quản và vận chuyển, áp lực từ các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và yêu cầu về phát triển bền vững, trong khi đó hạ tầng logistics lạnh chưa đồng bộ, công nghệ ứng dụng còn hạn chế.
Hay như với các DN trong lĩnh vực cảng biển, theo nhận định mới đây từ Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán Mirae Asset, đó là “rủi ro phía trước”.
Đơn cử là cuộc chiến thuế quan của Mỹ. Thuế quan và hạn ngạch trả đũa leo thang gây ra mối đe dọa đối với thương mại thế giới và gây áp lực lên nhu cầu tiêu dùng. Ngoài ra, đối với thị trường Mỹ, thuế quan cao hơn sẽ làm tăng chi phí nhập khẩu và ảnh hưởng tiêu cực đến sức mua. Vì Mỹ là khách hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, điều này đe dọa đến khối lượng thông quan và ngành cảng biển.
Tuy vậy, vẫn còn đó những cơ hội cho các DN logistics và vận tải nếu như họ biết cách “phòng ngự chắc” và “đón đầu” vào thời điểm thích hợp. Đó là tận dụng xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng sẽ giúp cho hưởng lợi khi có sự dịch chuyển thương mại lớn từ Trung Quốc sang Việt Nam và các quốc gia ASEAN khác. Hoặc như vận tải biển, đường bộ, kho bãi cần tận dụng việc hưởng lợi từ sự gia tăng nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua các cảng và tuyến đường trong khu vực.
Đến củng cố thị phần trên “sân nhà”
Ngoài vấn đề của ngành logistics, “phòng ngự chắc” cũng là điều cần làm với các DN Việt để không phải tiếp tục rơi vào tình thế khó khăn trong thời điểm có nhiều biến động thương mại như hiện nay.
Chẳng hạn như với ngành thép Việt, từ lúc Mỹ áp thuế 25% đối với thép và nhôm nhập khẩu (có hiệu lực từ ngày 4/3/2025), một trong những thế phòng thủ khả quan cho các DN ngành này là tìm động lực tăng trưởng trên thị trường “sân nhà”.
Như gần đây, phía Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) đã cố gắng tăng cường kết nối các DN thép với một số tập đoàn đang tham gia xây dựng hạ tầng giao thông ở khu vực phía Nam. Chẳng hạn việc tăng cường hợp tác với Tập đoàn Đèo Cả (một DN hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông tại Việt Nam) sẽ giúp các DN thép có cơ hội cung cấp sản phẩm cho các dự án lớn.
Hoặc như việc hồi tháng 2/2025 Bộ Công Thương ra quyết định áp thuế Chống bán phá giá tạm thời đối với thép HRC từ Trung Quốc với mức thuế khoảng 19% - 28%. Việc áp thuế như vậy là rất cần thiết trong bối cảnh thị phần của các DN thép nội địa xuống mức thấp nhất trong vòng 4 năm.
Bộ phận phân tích thuộc Công ty chứng khoán MBS đánh giá thuế chống bán phá giá như vậy có yếu tố quyết định trong việc giành lại thị phần của các DN trong nước trong bối cảnh thị trường nội địa đang bị cạnh tranh gay gắt.
Từ đó có thể thấy vai trò của phòng vệ thương mại là rất quan trọng để phần nào giúp cho các DN nội địa không rơi vào tình cảnh mất thị phần trên “sân nhà”. Đây cũng là điều mà các hoạch định chính sách cần chú tâm để giúp DN Việt tạo được thế “phòng ngự chắc” trước nhiều biến động.
Bởi lẽ, tình hình khó khăn của các DN nội địa vẫn còn là nỗi lo lớn. Như số liệu được Cục Thống kê đưa ra vào ngày 6/3 cho thấy trong hai tháng đầu của năm 2025, số DN rút lui khỏi thị trường là hơn 67,0 nghìn DN, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính ra bình quân mỗi tháng có hơn 33,5 nghìn DN trong cả nước rút lui khỏi thị trường.
Còn nhìn lại hồi năm 2024, số DN rút khỏi thị trường đã tăng 14,7% so với năm 2023, đạt mức kỷ lục 197.900 DN. Cho nên, nếu nhìn vào tình hình hiện tại khi đã trải qua những biến động thương mại trong hai tháng đầu của năm 2025 sẽ thấy còn nhiều vấn đề thách thức đến với DN Việt khi kinh tế toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Điều đáng nói là DN ở nhiều lĩnh vực đang đối diện với tình trạng sức mua suy giảm liên tục và chi phí đầu vào gia tăng. Suy cho cùng, nếu lơ là, không có hành động “phòng thủ” một cách chắc chắn, củng cố thị phần trên “sân nhà” từ bản thân DN và sự hỗ trợ của khâu chính sách, sẽ khó tránh khỏi tình trạng các DN tiếp tục rơi vào “vũng lầy” khó khăn trong thời gian tới.
Thế Vinh-Link gốc