Đây là những mục tiêu được đặt ra trong Nghị quyết số 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ vừa được Chính phủ ban hành.
Để đạt được các mục tiêu cụ thể, Chính phủ cũng đã đề ra 7 giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện và triển khai hiệu quả, đồng bộ các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển đảm bảo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp hỗ trợ, đồng thời xây dựng và triển khai các chính sách hiệu quả cho các ngành công nghiệp vật liệu và phát triển thị trường cho các ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, tạo nền tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bền vững.
Thứ hai, bố trí, đảm bảo và huy động nguồn lực hiệu quả để triển khai thực hiện chính sách đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển. Nâng cao vai trò và khuyến khích các địa phương đầu tư các nguồn lực để triển khai các chính sách, chương trình và hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi về lãi suất đối với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển khi vay vốn ngắn hạn tại tổ chức tín dụng; Nhà nước thực hiện cấp bù chênh lệch lãi suất đối với các khoản vay trung và dài hạn của các doanh nghiệp để thực hiện dự án sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển bằng nguồn vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và các nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài.
Thứ tư, tạo cơ hội hình thành và phát triển chuỗi giá trị trong nước thông qua thu hút đầu tư hiệu quả và thúc đẩy kết nối kinh doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp đa quốc gia, các công ty sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài; xây dựng các khu công nghiệp hỗ trợ tập trung để tạo cụm liên kết ngành; phát triển các ngành công nghiệp vật liệu nhằm tăng cường tính tự chủ về nguyên vật liệu đầu vào...
Đồng thời, thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm các doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển trở thành các tập đoàn có tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển.
Thứ năm, thúc đẩy phát triển thị trường nội địa và thị trường ngoài nước để tạo điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển.
Thứ sáu, xây dựng và vận hành hiệu quả các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng và địa phương từ vốn đầu tư trung hạn của Trung ương và địa phương trên cơ sở nhu cầu, mục tiêu phát triển và nguồn lực sẵn có nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu...
Bên cạnh đó, cần tập trung nâng cao năng lực khoa học công nghệ cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và chế biến, chế tạo. Đồng thời, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo thông qua các chương trình, kế hoạch quốc gia về nâng cao tay nghề, thúc đẩy liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động, phát triển hệ thống quản lý và đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp...
Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống thống kê, cơ sở dữ liệu công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển nhằm thúc đẩy kết nối giữa nhà cung cấp Việt Nam và các tập đoàn đa quốc gia; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xây dựng chính sách về công nghiệp hỗ trợ; nâng cao chất lượng công tác thống kê, bảo đảm thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác.
"Bước đệm" để đón làn sóng đầu tư mới
Nghị quyết của Chính phủ về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ là cơ sở, tiền đề cho các bộ, ngành nghiên cứu đưa ra các chính sách cụ thể để giải quyết các vấn đề nội tại của công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong thời gian tới. Các chính sách thiết thực, đủ mạnh và kịp thời sẽ thúc đẩy sự phát triển của công nghệ hỗ trợ, mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam đón đầu các dòng vốn đầu tư lớn trong xu thế chuyển dịch của chuỗi giá trị toàn cầu cũng như đổi mới mô hình phát triển công nghiệp.
Nghị quyết này cùng với quyết định thành lập Tổ công tác thúc đẩy hợp tác đầu tư nước ngoài của Thủ tướng hồi tháng 6 được xem là một trong những động thái kịp thời của Chính phủ nhằm đón làn sóng dịch chuyển đầu tư thời gian gần đây.
Danh sách 15 doanh nghiệp Nhật Bản được nhận trợ cấp để chuyển hoạt động sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam. Nguồn: Jetro.
Theo công bố của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) hồi tháng 7, trong số 30 doanh nghiệp Nhật Bản đăng ký nguyện vọng được dịch chuyển mở rộng sang các nước ASEAN, có tới 15 doanh nghiệp muốn chọn Việt Nam. Đa phần các doanh nghiệp này là doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất thiết bị y tế và linh kiện điện tử.
"Có 15 doanh nghiệp đăng ký đầu tư sang Việt Nam, cho thấy Việt Nam đang rất được quan tâm. Đây là chương trình nằm trong mục tiêu đa dạng hóa chuỗi cung ứng, tăng cường hợp tác giữa Nhật Bản và ASEAN", ông Takeo Nakajima, trưởng đại diện Văn phòng Jetro Hà Nội cho biết.
Ngoài các doanh nghiệp Nhật Bản, gần đây Apple và một số nhà cung ứng đối tác như GoerTek và Foxconn cũng đã có động thái muốn mở rộng cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Trước đó, Samsung cũng đã dịch chuyển phần nhiều hàng sản xuất của mình sang Việt Nam. Tương tự, Panasonic cũng thông báo sẽ chuyển việc sản xuất một số đồ gia dụng từ Thái Lan qua Việt Nam...
Chia sẻ với BizLIVE về những ưu thế của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI, đồng thời là điểm đến mới cho các nhà sản xuất trong quá trình dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, ông Don Lam, Tổng giám đốc, Đồng sáng lập Tập đoàn VinaCapital cho rằng, do áp lực về tỷ suất lợi nhuận cũng như giảm thiểu chi phí, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tìm đến Việt Nam như một điểm đến tiềm năng cho việc đặt các cơ sở sản xuất trong tương lai.
Theo phân tích của ông Don Lam, Việt Nam luôn có lợi thế về mặt lao động đối với các nhà đầu tư, đó là chất lượng lao động cao trong khi chi phí thấp, vị trí địa lý gần với chuỗi cung ứng tại Trung Quốc và phần còn lại của châu Á.
Bên cạnh đó, khả năng kiểm soát dịch bệnh Covid-19 khá tốt của Chính phủ Việt Nam trong thời gian vừa qua cũng giúp vị thế của Việt Nam trở nên thu hút hơn đối với cộng đồng doanh nghiệp quốc tế.