Các FTA đã mở lối cho hoạt động xuất khẩu và đưa kim ngạch xuất khẩu sang các nước đối tác tham gia FTA chiếm khoảng 65% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Các nước đối tác tham gia các FTA chiếm khoảng 65% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
Những năm qua, thực hiện chủ trương, định hướng của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, hoạt động xuất khẩu nói riêng, công tác kinh tế đối ngoại, hội nhập quốc tế về kinh tế nói chung đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng cao, cán cân thương mại tích cực, duy trì xuất siêu liên tục và tăng dần trong nhiều năm, góp phần ổn định cân đối lớn của nền kinh tế, hỗ trợ thực hiện chính sách tỷ giá, ngoại hối; tạo việc làm; nâng cao năng lực sản xuất, trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Thông quan xuất khẩu hàng hóa tại Cảng. (Ảnh: Đức Duy/Vietnam+)
Đóng góp quan trọng vào kết quả xuất khẩu thời gian qua là việc triển khai nhiều giải pháp nhằm khai thác tối đa các cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia ký kết.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết và cơ bản kết thúc đàm phán 17 Hiệp định FTA với trên 60 quốc gia, vùng lãnh thổ; đang đàm phán, chuẩn bị khởi động đàm phán 03 Hiệp định và 01 khung khổ kinh tế (Khung khổ kinh tế Ấn Độ - Thái Bình Dương (IPEF)).
Tổng kim ngạch xuất khẩu sang các nước đối tác tham gia các Hiệp định FTA chiếm khoảng 65% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi năm 2023 đạt trên 86 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2022, chưa kể kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường đối tác tham gia các FTA đã xóa bỏ thuế quan về 0%.
Mặc dù vậy, hoạt động xuất khẩu và khai thác ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh, chưa tận dụng tối đa các cơ hội có được, tính chuyên nghiệp và bền vững của một bộ phận doanh nghiệp chưa cao.
Trước tình hình đó, Bộ Công Thương đã và đang tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp triển khai các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả khai thác ưu đãi từ các Hiệp định FTA.
Theo đó, tiếp tục khai thác, mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó, bên cạnh việc duy trì và phát triển các thị trường trọng điểm, thị trường truyền thống, khai thác hiệu quả các thị trường đã ký kết FTA với Việt Nam, tăng cường khai thác các thị trường còn tiềm năng, Bộ sẽ tiếp tục đàm phán, ký kết, thực hiện các Hiệp định thương mại, liên kết kinh tế với các đối tác có tiềm năng, các nền kinh tế có tính bổ trợ với nền kinh tế Việt Nam để mở ra cơ hội xuất khẩu mới.
Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, xuất khẩu các ngành hàng. Trong đó, tập trung vào các ngành hàng chủ yếu như nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo; nhóm hàng nông, lâm, thủy sản.
Đồng thời, tăng cường cập nhật, cung cấp thông tin về cơ hội xuất khẩu và biến động chính sách tại các thị trường xuất khẩu cho các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp, đặc biệt là thị trường các nước tham gia các Hiệp định thương mại tự do với Việt Nam để doanh nghiệp kịp thời khai thác....
Cùng với đó, Bộ sẽ đẩy mạnh công tác tổ chức phổ biến, hướng dẫn về nội dung các cam kết và cách thức tận dụng ưu đãi từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đến các doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng và các cơ quan quản lý chuyên ngành tại địa phương bằng nhiều hình thức trực tiếp, trực tuyến, tiện tra cứu, khai thác; hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ lợi ích hợp pháp tại nước ngoài; đơn giản hóa thủ tục cấp chứng nhận xuất xứ, đẩy mạnh chuyển đổi số cấp chứng nhận xuất xứ điện tử. Từ ngày 1/1/2024, Việt Nam đã thực hiện việc cấp C/O điện tử cho doanh nghiệp bao gồm các mẫu C/O: AANZ, AJ, E, AHK, RCEP, CPTPP, VJ, VC, VN-CU và S. Đối với C/O mẫu D (sang các nước ASEAN) và C/O mẫu AK, VK (sang Hàn Quốc), Việt Nam đã thực hiện việc truyền dữ liệu C/O điện tử.
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vẫn đang phải đối diện nhiều khó khăn
Bên cạnh những kết quả nổi bật đã đạt được, hoạt động xuất khẩu nói chung, việc tận dụng ưu đãi từ các Hiệp định FTA nói riêng còn một số tồn tại, hạn chế như: Xuất khẩu tuy phục hồi tích cực nhưng chưa bền vững vì chịu ảnh hưởng mạnh từ các yếu tố bất ổn về chuỗi cung ứng và nhu cầu thị trường thế giới chưa phục hồi như kỳ vọng; xuất khẩu còn phụ thuộc lớn vào một số nền thị trường lớn; các doanh nghiệp FDI còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu (khoảng 73% năm 2023); hiệu quả khai thác các ưu đãi từ các Hiệp định FTA chưa cao như kỳ vọng.
Từ ngày 1/1/2024, Việt Nam đã thực hiện việc cấp C/O điện tử cho doanh nghiệp bao gồm các mẫu C/O: AANZ, AJ, E, AHK, RCEP, CPTPP, VJ, VC, VN-CU và S
Nguyên nhân là do diễn biến phức tạp, khó lường, các cuộc xung đột vũ trang trên thế giới đã tác động sâu sắc, nhiều mặt đến kinh tế và tác động trực tiếp đến chuỗi cung ứng toàn cầu (khủng hoảng Trung Đông, Biển Đỏ), gây sức ép tăng giá các mặt hàng chiến lược (năng lượng, lương thực), lạm phát toàn cầu chưa được kiểm soát, giá cước vận tải vẫn ở mức cao làm giảm sự phục hồi của thương mại, đầu tư toàn cầu…Trong khi đó, xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào đơn hàng từ nhà nhập khẩu nước ngoài và các dịch vụ bổ trợ như logistics, chuỗi phân phối của doanh nghiệp nước ngoài nên bị ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề, đặc biệt trong những tháng đầu năm 2023.
Xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc một số thị trường lớn vì dù chúng ta đã rất cố gắng thời gian qua nhưng việc cạnh tranh, từng bước chiếm lĩnh thị phần của các đối thủ khác để khai mở thị trường mới là nhiệm vụ khó khăn, cần có thời gian, nỗ lực vượt bậc của doanh nghiệp và sự hỗ trợ của Chính phủ, đặc biệt trong bối cảnh các nước đều dành nguồn lực lớn hỗ trợ xuất khẩu.
Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang các thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ… phải đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ, các rào cản kỹ thuật liên quan đến môi trường, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh.
Doanh nghiệp FDI hiện còn chiếm tỷ trong cao trong tổng xuất khẩu một phần nhờ lợi thế lớn về vốn đầu tư, hệ thống phân phối, thương hiệu, chuỗi cung ứng hoàn chỉnh nhiều năm ở phạm vi toàn cầu nên năng lực cạnh tranh cao trong xuất khẩu. Thời gian qua, các doanh nghiệp trong nước đã nỗ lực từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu (năm 2023 và 4 tháng 2024 tăng trưởng xuất khẩu cao hơn doanh nghiệp FDI), nhưng để nâng cao tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước cần thời gian và nỗ lực của cả doanh nghiệp và sự hỗ trợ của Chính phủ.
Cam kết của các Hiệp định thương mại tự do tương đối phức tạp trong khi mức độ quan tâm, nguồn lực đầu tư cho việc nghiên cứu, khai thác ưu đãi của một bộ phận doanh nghiệp còn hạn chế, đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
9 giải pháp trọng điểm sẽ được Bộ Công Thương tiếp tục triển khai, khơi thông dòng chảy thương mại hàng hóa
Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy việc thực hiện các FTA và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trước bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục biến động phức tạp, khó lường, Bộ Công Thương cho biết sẽ tiếp tục triển khai đồng loạt các giải pháp.
Thứ nhất, sẽ tiếp tục nắm bắt khó khăn, vướng mắc về sản xuất, xuất khẩu hàng hoá thông qua mối liên hệ chặt chẽ với các Hiệp hội ngành hàng để kịp thời giải quyết theo thẩm quyền hoặc tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền. Bám sát tình hình thực tế, chỉ đạo kịp thời, điều hành linh hoạt công tác xuất khẩu gạo và các nông sản khác; định hướng, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia các cuộc đấu thầu nhập khẩu gạo của Chính phủ các nước nhằm khai thác tối đa cơ hội thuận lợi trên thị trường thế giới, đồng thời, đảm bảo tuyệt đối an ninh năng lượng quốc gia.
Thứ hai, chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Ngoại giao đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu, đặc biệt cho các mặt hàng trái cây và sản phẩm trồng trọt; Phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan triển khai chỉ đạo của Chính phủ liên quan đối Thuế tối thiểu toàn cầu nhằm duy trì sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam, qua đó củng cố năng lực xuất khẩu bền vững.
Thứ ba, nâng cao năng lực sản xuất, xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước; Hỗ trợ, kết nối các doanh nghiệp trong nước với các tập đoàn đa quốc gia, với các doanh nghiệp FDI để nâng cao khả năng tham gia chuỗi cung ứng, xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, tập trung triển khai hiệu quả công tác xúc tiến xuất khẩu.
Thứ năm, theo dõi sát biến động chính sách của các đối tác thương mại, đặc biệt các đối tác thương mại lớn để tham mưu, đề xuất với Chính phủ các phản ứng chính sách phù hợp, kịp thời để thúc đẩy xuất khẩu; Chỉ đạo hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài thường xuyên liên tục cập nhật các thông tin về quy định, chính sách của thị trường sở tại, kịp thời thông tin, khuyến nghị đối với các Hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ sáu, phối hợp với các Hiệp hội ngành hàng nhằm tháo gỡ khó khăn liên quan đến chi phí vận chuyển hàng hoá khi tình hình căng thẳng xảy ra tại Biển Đỏ; kịp thời có khuyến cáo các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp xuất khẩu trong bối cảnh diễn biến bất ổn tại Israel.
Thứ bảy, tăng cường cảnh báo sớm các vụ kiện phòng vệ thương mại; hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp cách ứng phó với các vụ kiện; kịp thời thông tin cho doanh nghiệp, Hiệp hội về thông tin, nhu cầu, quy định mới của thị trường.
Thứ tám, điều tiết tốt tốc độ thông quan tại các cửa khẩu biên giới, khuyến cáo doanh nghiệp, thúc đẩy chuyển sang thương mại chính ngạch.
Thứ chín, triển khai vận hành tốt hệ thống cấp Giấy chứng nhận xuất xứ qua Internet và cơ chế Tự chứng nhận xuất xứ; rà soát, đơn giản hóa quy trình cấp C/O; áp dụng khai báo C/O điện tử; Cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu khi làm thủ tục đề nghị cấp C/O; Kịp thời giải đáp các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất xứ.
Nguyễn Hạnh-Link gốc