Bà Hilde Solbakken, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam chia sẻ với VnEconomy cam kết của Na Uy trong đầu tư và phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam, góp phần vào trình chuyển đổi năng lượng của đất nước.
Bà Hilde Solbakken, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam
Xin Đại sứ chia sẻ về các dự án/đầu tư vào năng lượng tái tạo của Na Uy vào Việt Nam? Bà có đánh giá như thế nào về kết quả đạt được của các dự án/đầu tư này đến thời điểm hiện tại?
Việt Nam là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới với nhu cầu tương ứng về năng lượng sạch hơn. Do đó, Việt Nam đang trở thành một thị trường ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư năng lượng tái tạo, bao gồm cả các công ty Na Uy. Việc thông qua Quy hoạch phát triển điện 8 (PDP8) được mong đợi từ lâu vào tháng 5 là một bước quan trọng trên con đường thiết lập khuôn khổ pháp lý cần thiết để ngành này phát triển.
Tôi rất vui khi thấy các công ty Na Uy tích cực tham gia vào lĩnh vực năng lượng tái tạo của Việt Nam. Trong đó, có một số công ty mà tôi muốn kể đến như những ví dụ tiêu biểu trong cộng đồng các doanh nghiệp về năng lượng tái tạo.
Mainstream Renewable Power (Mainstream), đã có mặt tại thị trường Việt Nam vào năm 2016, hiện là đơn vị phát triển dự án năng lượng tái tạo với tổng công suất hơn 2,3 GW trên ba dự án tại Việt Nam. Mainstream hiện đang phát triển một trong những trang trại điện gió ngoài khơi đầu tiên và lớn nhất của đất nước, dự án Điện gió ngoài khơi Sóc Trăng công suất 1,4 GW và có một dự án điện gió ngoài khơi công suất 500 MW đang được phát triển tại tỉnh Bến Tre và danh mục đầu tư điện mặt trời công suất 405 MW trên khắp Tỉnh Đắk Nông.
Scatec Vietnam được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2019, hiện đang sở hữu và vận hành trang trại Điện gió Đầm Nại với tổng công suất 39 MW tại Tỉnh Ninh Thuận – “thủ phủ năng lượng tái tạo” của Việt Nam và cung cấp 123 GWh năng lượng sạch mỗi năm cho người tiêu dùng Việt Nam. Chiến lược của công ty là mở rộng hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng tái tạo để phù hợp với mục tiêu phát triển năng lượng của Chính phủ Việt Nam.
Norsk Solar là một nhà sản xuất điện mặt trời độc lập, đặc biệt tập trung vào thị trường thương mại và công nghiệp tại các thị trường mới nổi. Năm 2021, họ đã ký thỏa thuận mua điện dài hạn 11 MW với Central Retail tại Việt Nam. Năm 2023, Norsk Solar đã ký một thỏa thuận mới với CME Solar của Việt Nam để thúc đẩy các sáng kiến năng lượng tái tạo tại Việt Nam, đặc biệt là các giải pháp năng lượng mặt trời.
Equinor, một công ty năng lượng của Na Uy đã thiết lập sự hiện diện thương mại tại Việt Nam vào năm 2021, nhưng công ty (trước đây là Statoil) có mối quan hệ lâu dài với PetroVietnam từ những năm 1990. Tham vọng của Equinor là tận dụng 50 năm kinh nghiệm ngoài khơi và năng lực năng lượng rộng lớn của mình để hỗ trợ Việt Nam phát triển lĩnh vực điện gió ngoài khơi, mở đường cho sự phát triển của năng lượng tái tạo. Equinor đã ký hai Biên bản ghi nhớ (MoU) với PetroVietnam về hợp tác chiến lược, đầu tiên là về điện gió ngoài khơi (năm 2021) và sau đó mở rộng hợp tác để bao gồm cả các giải pháp phát thải carbon thấp (tháng 11 năm 2023).
Tôi rất vui khi thấy các công ty Na Uy quan tâm đến thị trường Việt Nam để phát triển kinh doanh và đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững và chuyển đổi xanh của đất nước.
Tại sao các công ty Na Uy lại lựa chọn Việt Nam để đầu tư và phát triển các dự án năng lượng tái tạo? Đại sứ có đánh giá như thế nào về triển vọng phát triển năng lượng tái tạo nói riêng và chuyển dịch năng lượng của Việt Nam nói chung?
Việt Nam và Na Uy là những quốc gia ký kết Thỏa thuận Paris. Cả hai đều là quốc gia đại dương và do đó rất dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu. Cần phải chuyển sang năng lượng sạch hơn và năng lượng tái tạo để giúp Việt Nam đạt được cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2045.
Tôi tin rằng triển vọng phát triển năng lượng tái tạo và chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam rất hứa hẹn. Đất nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phù hợp với năng lượng tái tạo, chẳng hạn như bờ biển dài, tốc độ gió mạnh và ổn định, bức xạ mặt trời trung bình cao, v.v.
Chúng tôi cũng rất vui mừng trước cam kết mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam đối với năng lượng tái tạo thông qua nhiều chính sách và kế hoạch khác nhau, bao gồm cả PDP 8, nhằm mục đích tăng đáng kể tỷ trọng năng lượng tái tạo trong cơ cấu năng lượng. Theo Quyết định 500, Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất điện lên 30,9-39,2% vào năm 2030 và 67,5-71,5% vào năm 2050.
Tất nhiên, vẫn có những thách thức, nhưng điều này là không thể tránh khỏi bởi tất cả chúng ta đều phải đối mặt với những thách thức trong quá trình chuyển đổi. Đó là lý do tại sao hợp tác là rất quan trọng và Na Uy sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của mình và học hỏi từ quá trình này cùng với Việt Nam.
Như Đại sứ chia sẻ, quá trình chuyển đổi sẽ không tránh khỏi được những thách thức. Vậy những thách thức khi đầu tư và phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam là gì?
Giống như bất kỳ nơi nào trên thế giới, phát triển năng lượng tái tạo rất phức tạp. Công suất và tính ổn định của lưới điện được coi là rào cản kỹ thuật chính. Để đảm bảo tích hợp năng lượng tái tạo đáng tin cậy, điều cần thiết là phải đầu tư vào hiện đại hóa lưới điện và nâng cấp mạng lưới truyền tải và phân phối để xử lý tải tăng từ các nguồn năng lượng tái tạo. Vì năng lượng mặt trời và gió dao động, nên việc phát triển BESS (Battery Energy Storage Systems - Hệ thống lưu trữ năng lượng pin) cũng cần thiết để đảm bảo tính ổn định trong nguồn cung cấp điện vào các thời điểm cao điểm và lưu trữ năng lượng dư thừa.
Tài chính là một thách thức khác. Các dự án năng lượng tái tạo đòi hỏi phải đầu tư đáng kể ngay từ đầu và có thời gian hoàn vốn dài. Do đó, việc đảm bảo các nguồn tài chính đầy đủ và sử dụng các công cụ tài chính khuyến khích các giải pháp xanh là rất quan trọng.
Bên cạnh đó, việc sử dụng đất có thể là một vấn đề đối với các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn, thường đòi hỏi diện tích đất đáng kể.
Cuối cùng, để thành công, chúng ta cần xây dựng sự chấp nhận của xã hội và quá trình chuyển đổi lực lượng lao động từ các ngành năng lượng truyền thống sang năng lượng tái tạo có thể là những trở ngại.
Tại COP26, COP27 và COP28, Việt Nam khẳng định cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Đại sứ có đánh giá thế nào về tốc độ chuyển đổi năng lượng của Việt Nam trong quá trình đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0?
Việt Nam đã đi đúng hướng hướng tới mục tiêu này. Quá trình chuyển đổi năng lượng của đất nước đang tiến triển, được thúc đẩy bởi các cam kết mạnh mẽ của Chính phủ. Từ kinh nghiệm của chúng tôi tại Na Uy, chúng tôi biết rằng cần có thời gian để xây dựng các khuôn khổ pháp lý mới và tạo ra một môi trường thuận lợi.
Tôi xin chúc mừng Chính phủ Việt Nam vì đã thông qua thỏa thuận mua điện trực tiếp vào đầu tháng 7 này và kế hoạch của mình. Đây là một cột mốc hướng tới cam kết phát thải ròng bằng 0 của đất nước vào năm 2050 và cho các dự án năng lượng mặt trời trong ngắn hạn. Chính sách mới này cho phép các tập đoàn mua điện trực tiếp từ các nhà máy phát điện năng lượng tái tạo thông qua đường dây truyền tải điện tư nhân hoặc lưới điện quốc gia. Chính sách này sẽ thu hút thêm đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo và do đó thúc đẩy tính bền vững và hiệu quả của thị trường điện. Việc công bố các dự án điện gió ngoài khơi thí điểm cũng sẽ rất quan trọng để khởi động sự phát triển của ngành công nghiệp mới của đất nước.
Những nỗ lực này đã góp phần đưa Việt Nam xếp hạng 32 trong chỉ số chuyển đổi năng lượng thế giới trong báo cáo “Thúc đẩy chuyển đổi năng lượng hiệu quả năm 2024” của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF). Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra rằng động lực chuyển đổi năng lượng đang chậm lại. Bên cạnh việc tăng cường áp dụng năng lượng gió và mặt trời, đầu tư vào năng lượng sạch vẫn chưa đạt được tốc độ cần thiết để đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, đặc biệt là về hiệu quả năng lượng, điện khí hóa lưới điện và áp dụng các nguồn năng lượng và nhiên liệu carbon thấp.
Để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 sẽ cần những nỗ lực bền bỉ để giải quyết các thách thức về cơ sở hạ tầng, quy định và tài chính. Việc tiếp tục tập trung vào đổi mới công nghệ, hiệu quả năng lượng và hiện đại hóa lưới điện sẽ rất quan trọng để duy trì và đẩy nhanh động lực chuyển đổi năng lượng.
Tất cả chúng ta đang vật lộn với việc giảm phát thải khí hậu và thực hiện đủ nhanh, và hợp tác quốc tế cùng chia sẻ các thông lệ tốt nhất sẽ rất quan trọng để thành công trong việc đảm bảo tiến độ và ngăn chặn tình trạng nóng lên toàn cầu hơn nữa.
Theo đó, hoạt động của Na Uy có đóng góp và ý nghĩa gì trong việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam?
Hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi năng lượng của đất nước là một trong những ưu tiên của Na Uy với tư cách là đối tác của Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP).
Về vấn đề này, chúng tôi rất trân trọng mối quan hệ đối tác với Chính phủ Việt Nam, các Bộ liên quan như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (VASI), Bộ Công Thương (Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo - EREA), chính quyền địa phương và cộng đồng quốc tế bao gồm Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) trong công tác hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi năng lượng.
Về mặt phát triển chính sách, chúng tôi đã hợp tác với Bộ Tài nguyên và Môi trường và UNDP trong việc xây dựng Khung quy hoạch không gian biển (MSP) đầu tiên của Việt Nam, vừa được Quốc hội Việt Nam thông qua.
Điện gió ngoài khơi có tiềm năng trở thành một phần quan trọng trong các giải pháp chuyển đổi năng lượng. Khung MSP đóng vai trò quan trọng để đảm bảo chúng ta sử dụng biển theo cách bền vững nhằm hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp biển hiện có và mới, thúc đẩy tạo việc làm và tạo ra giá trị bền vững, đồng thời tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi xanh, đồng thời bảo vệ hệ sinh thái biển.
Chúng tôi cũng đang làm việc với các cơ quan chức năng có liên quan của Việt Nam, cả trung ương và địa phương, để mở rộng quy mô đồng xử lý trong ngành xi măng của đất nước. Việt Nam là nước sản xuất xi măng lớn thứ ba trên thế giới, sau Trung Quốc và Ấn Độ, và ngành xi măng của đất nước này chiếm 20-22 phần trăm tổng lượng phát thải GHG. Bằng cách sử dụng chất thải nhựa không thể tái chế làm nhiên liệu trong lò nung xi măng thay vì than, đồng xử lý không chỉ giúp giải quyết thách thức về ô nhiễm nhựa mà còn giảm phát thải GHG. Đồng xử lý là giải pháp đôi bên cùng có lợi, mang lại lợi ích cho cả môi trường và doanh nghiệp, đồng thời đóng góp rất lớn vào mục tiêu chuyển đổi năng lượng.
Na Uy là đồng chủ tịch của Liên minh Năng lượng Toàn cầu vì Con người và Hành tinh (GEAPP), đơn vị đã khởi xướng hai sáng kiến đặc trưng, bao gồm liên minh Hệ thống Lưu trữ Năng lượng Pin (BESS) nhằm mục đích đảm bảo cam kết lưu trữ năng lượng 5GW vào cuối năm 2024 và triển khai đầy đủ 5GW cơ sở hạ tầng BESS tại 30 quốc gia vào năm 2030. Chúng tôi khuyến khích Việt Nam tham gia Liên minh BESS để được hưởng lợi từ các dự án và mạng lưới toàn cầu của liên minh này trong việc củng cố lưới điện để áp dụng mức phát triển năng lượng tái tạo cao tại Việt Nam.
Xin Đại sứ hãy chia sẻ những kế hoạch/hoạt động sắp tới của Na Uy trỏng phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam?
Đại sứ quán tại Hà Nội, Bộ phận Thương mại của chúng tôi (Innovation Norway) và các doanh nghiệp Na Uy sẽ tiếp tục công việc đang thực hiện để hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi năng lượng, tập trung vào việc triển khai Quy hoạch không gian biển, mở rộng quy mô đồng xử lý trong sản xuất xi măng và phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi của Việt Nam.
Chúng tôi biết ơn mối quan hệ đối tác chặt chẽ và mang tính xây dựng với các đối tác quốc gia, địa phương và quốc tế cho đến nay, và mong muốn tiếp tục duy trì mối quan hệ này trong thời gian tới.
Chúng tôi mong muốn giúp Việt Nam đạt được mục tiêu này vì lợi ích của đất nước và khí hậu toàn cầu.
Ngọc Lan-Link gốc