Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 9 tháng năm 2025 đạt 52,31 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2024.
Thủy sản tiếp tục có đà tăng trưởng tốt. Ảnh: Vũ Sinh - TTXVN
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 9 năm 2025 của Việt Nam ước đạt 6,35 tỷ USD, tăng 11,8% so với tháng 9 năm 2024. Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 9 tháng năm 2025 đạt 52,31 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2024. Cán cân thương mại nông lâm thủy sản Việt Nam 9 tháng ước đạt thặng dư 15,93 tỷ USD, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước.
Trong số đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 28,51 tỷ USD, tăng 16,8%; sản phẩm chăn nuôi đạt 447,5 triệu USD, tăng 18,6%; thủy sản đạt 8,12 tỷ USD, tăng 12,3%; lâm sản đạt 13,41 tỷ USD, tăng 7,4%...
Xét theo vùng lãnh thổ, châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng nông lâm thủy sản của Việt Nam với thị phần chiếm 43,9%. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23% và 14,2%. Thị phần của 2 khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 3% và 1,3%. So với cùng kỳ năm trước, ước giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam 9 tháng sang khu vực châu Á tăng 4,1%; châu Mỹ tăng 11,4%; châu Âu tăng 40,6%; châu Phi tăng 91,6% và châu Đại Dương tăng 6,5%.
Xét theo thị trường chi tiết, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản lớn nhất của Việt Nam.
Xuất khẩu nông lâm thủy sản ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực bởi một số mặt hàng tăng trưởng mạnh nhờ giá xuất khẩu tăng cao. Cà phê là điểm sáng nổi bật khi kim ngạch đạt 6,98 tỷ USD, tăng tới 61,4% so với cùng kỳ năm trước dù sản lượng chỉ tăng 11,1%; giá xuất khẩu bình quân tăng 45,3%, đạt 5.658 USD/tấn.
Hạt tiêu và hạt điều cũng ghi nhận tăng trưởng giá trị lần lượt 28,7% và 18,9%, nhờ giá xuất khẩu tăng mạnh. Giá trị xuất khẩu hạt tiêu 9 tháng đạt 188.100 tấn với 1,27 tỷ USD. Hạt điều cũng đạt 552.300 tấn với 3,75 tỷ USD.
Ngược lại, một số mặt hàng như gạo và sắn có sản lượng tăng nhưng giá trị tăng chậm hoặc giảm do giá xuất khẩu bình quân sụt giảm.
Cụ thể, xuất khẩu gạo đạt 3,55 tỷ USD, giảm 18,5% về giá trị dù khối lượng gần như không đổi. Tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 9 tháng đạt 7 triệu tấn với 3,55 tỷ USD. Giá gạo xuất khẩu bình quân ước đạt 509 USD/tấn, giảm 18,6% so với cùng kỳ năm 2024.
Rau quả và thủy sản tiếp tục duy trì đà tăng ổn định, lần lượt đạt 6,22 tỷ USD (tăng 10,3%) và 8,12 tỷ USD (tăng 12,3%).
Tuy nhiên, chè là mặt hàng duy nhất ghi nhận giảm cả về khối lượng và giá trị, 11.000 tấn với giá trị đạt 19,7 triệu USD, lần lượt giảm là 10,4% và 10,9%.
Bích Hồng-Link gốc