Nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua khó khăn để từng bước phục hồi, với sự đóng góp không nhỏ của cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài.
Ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Phòng Thương mại Hoa Kỳ (AmCham Hà Nội) trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư về hoạt động của doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam cũng như những kỳ vọng trong năm nay.
Ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Phòng Thương mại Hoa Kỳ (AmCham Hà Nội)
Thưa ông, tình hình hoạt động của doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam trong năm qua ra sao và hiện đánh giá như thế nào về môi trường đầu tư tại đây?
Năm ngoái là một năm đầy thách thức đối với tất cả mọi người, bất kể lĩnh vực kinh doanh nào. Các doanh nghiệp đã gặp phải thách thức về hoạt động, chuỗi cung ứng, di chuyển...
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với các công ty Hoa Kỳ tại Việt Nam là sự thay đổi thường xuyên trong các quy định được công bố và thực hiện trong thời gian ngắn. Chúng tôi cho rằng, các quy tắc và quy định mới phải rõ ràng và không dựa trên các khái niệm không xác định như “thiết yếu”. Chính phủ nên tham khảo ý kiến của các đại diện trong ngành trước khi các chính sách mới được công bố và thực hiện. Quan trọng nhất, cần có sự phối hợp tốt hơn ở tất cả các cấp chính quyền trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến dịch bệnh Covid-19.
Ngay cả trong thời điểm đầy bất trắc và lo lắng đó, các công ty Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tăng cường hỗ trợ giải quyết các nhu cầu của xã hội và tôi rất tự hào về những việc tốt mà nhiều thành viên AmCham đã làm ở đây để hỗ trợ các công ty thành viên khác, hỗ trợ cộng đồng, cũng như hỗ trợ các hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với dịch bệnh và phục hồi, phát triển kinh tế.
Các công ty và nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đóng góp đáng kể vào sự chuyển đổi và tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Điều này đang tiếp tục diễn ra khi các thành viên của AmCham đại diện cho hàng tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, hàng chục ngàn nhân viên trực tiếp, hàng trăm ngàn nhân viên gián tiếp và một phần đáng kể trong xuất khẩu và doanh thu thuế của Việt Nam. Hai nước đã đạt kim ngạch thương mại khoảng 100 tỷ USD trong năm ngoái và Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, ngay cả trong bối cảnh đại dịch khủng khiếp này.
Doanh nghiệp và nhà đầu tư Hoa Kỳ kỳ vọng gì vào thị trường Việt Nam trong năm 2022, cả về cải cách chính sách và cơ hội thị trường, thưa ông?
Là các nhà đầu tư lớn, các công ty Hoa Kỳ đang đầu tư vào sự thành công liên tục của Việt Nam và chúng tôi đang hướng tới một tương lai tươi sáng ở đây. Để Việt Nam thành công, tệ quan liêu phải được kiểm soát và khuôn khổ pháp lý của quốc gia phải ổn định và có thể dự đoán được. Nhiều doanh nhân vẫn lo ngại về những thay đổi trong chính sách và quy định không phù hợp với các thông lệ quốc tế tốt nhất.
Chúng tôi khuyến khích những cải tiến liên tục trong phát triển kết cấu hạ tầng, bảo vệ sở hữu trí tuệ, cải cách giáo dục, đảm bảo chính sách pháp luật và thuế, cũng như nâng cao tính minh bạch ở Việt Nam.
Chúng tôi đánh giá cao những quyết định gần đây nhằm tạo thuận lợi cho việc đi lại xuyên biên giới và chúng tôi khuyến khích các hành động bổ sung để giảm bớt gánh nặng cho việc đi lại quốc tế của cả người nước ngoài và công dân Việt Nam. An toàn là ưu tiên hàng đầu, nhưng chúng tôi hy vọng được thấy các thủ tục hợp lý, dễ dự đoán hơn cho các giám đốc điều hành, các nhà đầu tư mới và các nhóm hỗ trợ kỹ thuật của chúng tôi để duy trì hoạt động, tạo điều kiện mở rộng hoạt động và đầu tư mới. Việc cho phép nhập cảnh vào Việt Nam hiện vẫn còn nhiều thách thức do các thủ tục giấy tờ phức tạp và rườm rà, cũng như khó khăn trong việc xin giấy phép lao động theo quy định trong Nghị định số 152/2020/NĐ-CP về người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
Có lẽ, điều quan trọng nhất là phải ban hành các thủ tục kiểm toán và thuế suôn sẻ, công bằng và nhất quán để tránh các phán quyết có hiệu lực hồi tố khác nhau giữa các địa phương và xung đột với các thủ tục thuế của chuỗi cung ứng toàn cầu. Tiến bộ trong các lĩnh vực này sẽ không chỉ giúp thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài, mà còn sẽ hỗ trợ cho khát vọng của Việt Nam trong việc thúc đẩy đất nước lên nấc thang mới về cạnh tranh kinh tế trong tương lai.
Hiện nay, các nhà đầu tư mong đợi một môi trường pháp lý công bằng hơn, minh bạch hơn, có thể dự đoán và hợp lý hóa, coi trọng đổi mới. Điều này sẽ không chỉ giúp thu hút đầu tư mới, mà còn duy trì và phát triển các dự án đầu tư đã có ở đây.
Chúng tôi biết, những tác động kinh tế của đại dịch đối với Việt Nam là rất nghiêm trọng và sẽ ảnh hưởng đến chúng tôi trong một thời gian khá dài. Ngay cả khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi, áp lực tài chính đối với nhiều công ty sẽ vẫn còn đáng kể. Tuy nhiên, tôi vẫn lạc quan và nhìn thấy cơ hội lớn và tương lai tươi sáng cho các công ty Hoa Kỳ tại đây.
Trong chiến lược thu hút FDI mới, Việt Nam sẽ đặt ưu tiên lớn hơn trong việc thu hút các dự án công nghệ cao. Ông có cho rằng, sẽ có nhiều doanh nghiệp công nghệ cao của Hoa Kỳ đến Việt Nam?
Trong thế giới ngày nay, bạn không thể tách nền kinh tế kỹ thuật số khỏi nền kinh tế thực. Chuyển đổi số làm giảm đáng kể chi phí, cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho nhiều đối tượng người tiêu dùng hơn, đồng thời tăng khả năng tiếp cận các thị trường mới hơn và lớn hơn. Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ về thương mại điện tử, fintech, edtech, kinh tế sáng tạo.
Để phát huy tiềm năng, Việt Nam cần đảm bảo một môi trường pháp lý thuận lợi. Chúng tôi khuyến khích một môi trường pháp lý mở và tương thích, cho phép truy cập thông tin, quyền riêng tư dữ liệu, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, an ninh mạng và thương mại dịch vụ kỹ thuật số tự do, công bằng và có đi có lại. Các công ty thành viên của chúng tôi rất mong muốn được hợp tác với các công ty Việt Nam để thúc đẩy chuyển đổi số và thúc đẩy một thế hệ khởi nghiệp công nghệ mới để hỗ trợ mục tiêu của Việt Nam về kinh tế số chiếm 25% GDP vào năm 2025.
Các công ty công nghệ trong nước đã phát triển nhanh chóng nhờ quan hệ đối tác về hạ tầng kỹ thuật số và tài chính với hệ sinh thái công nghệ toàn cầu. Chúng tôi khuyến khích việc mở rộng các mối quan hệ đối tác này bằng cách đảm bảo rằng, các quy định không ngăn cản sự phát triển. Luồng dữ liệu miễn phí, cho phép các công ty Việt Nam tiếp cận các dịch vụ toàn cầu như trung tâm dữ liệu và tài chính quốc tế trong lĩnh vực thanh toán kỹ thuật số, là yếu tố quan trọng để tiếp tục phát triển nhanh chóng nền kinh tế số của Việt Nam.
Bảo vệ dữ liệu là một thành phần quan trọng của tăng trưởng bền vững và có trách nhiệm của nền kinh tế số và AmCham hoan nghênh nỗ lực của Chính phủ trong việc bắt đầu xây dựng hệ sinh thái chính sách bảo vệ dữ liệu. Chúng tôi khuyến khích một môi trường pháp lý đặt người dùng vào trung tâm của các chính sách mới, đảm bảo để người tiêu dùng Việt Nam tiếp tục được tiếp cận các dịch vụ toàn cầu.
Có nhiều hứa hẹn trong lĩnh vực công nghệ cao ở Việt Nam và tôi tin rằng, đối thoại mạnh mẽ giữa Chính phủ và khu vực tư nhân có thể giúp giải quyết các thách thức và dẫn đến kết quả chính sách công tối ưu, từ đó thu hút nhiều vốn đầu tư hơn.
Theo ông, để doanh nghiệp hai bên có thể tiếp cận sâu hơn vào thị trường của nhau, Hoa Kỳ có nên tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) không?
Các công ty, nông dân, công nhân và nhà đầu tư của Hoa Kỳ đã phải chịu thiệt thòi nhiều kể từ khi Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cách đây 5 năm và tôi tin rằng, CPTPP vẫn là hiệp định đa phương tiêu chuẩn cao nhất còn tồn tại. AmCham sẽ tiếp tục ủng hộ việc tăng cường mối quan hệ thương mại và đầu tư song phương, lý tưởng nhất là thông qua việc Hoa Kỳ gia nhập CPTPP.
Tôi cũng hy vọng, Chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam có thể bắt đầu nỗ lực hướng tới một hiệp định thương mại tự do song phương. Điều này sẽ không sớm xảy ra, nhưng nó sẽ cải thiện dòng chảy đầu tư và thương mại, hỗ trợ chuỗi cung ứng bền vững và sẽ cải thiện các điều kiện kinh doanh nhằm tăng cường sức mạnh của khu vực tư nhân, đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội bền vững.