Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam vẫn nhỏ so với các nước trong khu vực và tạo sức ép nhu cầu vốn rất lớn lên hệ thống ngân hàng...
Phát biểu tại "Hội nghị phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế" do Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì chiều 22/4, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng vừa là nhà đầu tư trực tiếp, vừa là nhà phát hành lớn.
Cụ thể, tính đến cuối năm 2021, có 41 tổ chức tín dụng tham gia với tổng dư nợ trái phiếu tín dụng là 274 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,63% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống. Qua đó góp phần gia tăng thanh khoản, thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển.
Trái lại, với vai trò là nhà phát hành, năm 2021, trái phiếu do tổ chức tín dụng phát hành chiếm 36,18% tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trên thị trường. Tính đến 31/3/2022, có 29 tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu với dư nợ khoảng 427 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,7% tổng vốn huy động nền kinh tế.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng chia sẻ tại hội nghị
Theo đó, các tổ chức tín dụng là đối tượng phát hành trái phiếu lớn thứ hai trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiện nay, là định chế chính tạo lập thị trường trái phiếu doanh nghiệp, góp phần gia tăng cả lượng và chất đối với hàng hóa được giao dịch trên thị trường.
Mặc dù tham gia vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp với cả tư cách nhà đầu tư và đơn vị phát hành như trên; tuy nhiên, Thống đốc vẫn cho rằng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam có quy mô còn nhỏ so với các nước trong khu vực. Bởi vậy, doanh nghiệp phải dựa rất nhiều vào vốn tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung dài hạn (năm 2021, quy mô tín dụng đạt 124,3% GDP).
“Thực trạng này đã và đang tạo sức ép và rủi ro lớn cho hệ thống tổ chức tín dụng khi nguồn vốn chủ yếu là ngắn hạn (tỷ lệ huy động vốn ngắn hạn chiếm khoảng 82% tổng huy động vốn)”, Thống đốc nhấn mạnh.
Do đó, việc thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển minh bạch, hiệu quả giúp cân bằng, hài hòa theo hướng vốn ngắn hạn dựa vào hệ thống ngân hàng, vốn trung dài hạn dựa vào thị trường vốn. Từ đó giảm rủi ro chênh lệch kỳ hạn, tạo thuận lợi cho hệ thống tổ chức tín dụng phát triển lành mạnh, hiệu quả. Về phía doanh nghiệp, nên chủ động hơn trong việc đầu tư, sản xuất kinh doanh với nguồn vốn trung dài hạn.
Đánh giá về thị trường trái phiếu doanh nghiệp, Thống đốc cho rằng vẫn còn những bất cập khác. Điển hình như việc các nhà đầu tư như các doanh nghiệp bảo hiểm, quỹ đầu tư chứng khoán chưa khẳng định vai trò chủ đạo trên thị trường; hệ thống quỹ hưu trí tự nguyện, các quỹ tương hỗ chưa phát triển, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế.
Đồng thời, nhà đầu tư cá nhân có xu hướng gia tăng mua, nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp nhưng khả năng phân tích, đánh giá và quản trị rủi ro khi mua, đặc biệt trong bối cảnh thị trường thiếu vắng các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín nên cũng hạn chế đáng kể việc đánh giá và ra quyết định của các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, chưa có thị trường trái phiếu doanh nghiệp chuyên biệt nên khi phát sinh nhu cầu mua, bán trên thứ cấp, nhà đầu tư và nhà phát hành phải chào mua, chào bán tới từng tổ chức, cá nhân.
Để phát triển đồng bộ, minh bạch và bền vững thị trường tài chính theo hướng hoạt động an toàn, hiệu quả, có cơ cấu hợp lý, cân đối giữa thị trường tiền tệ, tín dụng với thị trường vốn, Thống đốc đưa ra bốn kiến nghị.
Thứ nhất, phát triển đồng bộ các phân khúc của thị trường tài chính (thị trường trái phiếu, cổ phiếu, chứng khoán phái sinh…) theo hướng tập trung hiện đại hóa công nghệ thông tin và cơ sở hạ tầng phục vụ giao dịch thị trường; đa dạng hoá các nhà đầu tư tham gia thị trường, khuyến khích các quỹ, công ty bảo hiểm... tham gia sâu và rộng hơn vào thị trường; thành lập các công ty xếp hạng tín nhiệm uy tín, nâng cao tính công khai, minh bạch của thị trường.
Thứ hai, rà soát, hoàn thiện hành lang pháp lý và triển khai các giải pháp tạo điều kiện phát triển thị trường vốn (trong đó có thị trường trái phiếu doanh nghiệp), giảm áp lực tới nguồn vốn tín dụng từ hệ thống các tổ chức tín dụng, nhất là vốn trung dài hạn.
Thứ ba, tăng cường công tác quản lý, thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán, trong đó có thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Thứ tư, về phía doanh nghiệp, tiếp tục nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, áp dụng chuẩn mực quốc tế về quản trị, hạch toán, kế toán và công bố thông tin trong hoạt động; đa dạng hóa mô hình, chiến lược kinh doanh… để tăng niềm tin của nhà đầu tư, gia tăng mức độ hấp dẫn của trái phiếu, từ đó nâng cao khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán.