Một trong những nỗi lo ngại lớn nhất thời gian qua chính là “quả bom nổ chậm” trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), mà cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Với lượng TPDN sắp đáo hạn trong những tháng còn lại của năm nay rất lớn, nếu các doanh nghiệp không thể thanh toán được nợ gốc, lãi đúng hạn, các ngân hàng sẽ phải cư xử ra sao?
Những giải pháp cấp thiết
Chiều ngày 22-4-2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có buổi họp với Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp để rà soát, thúc đẩy việc ban hành ngay hai thông tư quan trọng, là thông tư liên quan đến hướng dẫn cơ cấu lại nợ, hoãn giãn nợ, không chuyển nhóm nợ và thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 16/2021/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán TPDN.
Ngay sau đó, trong ngày 23-4-2023, Thống đốc NHNN đã ban hành hai thông tư này, có hiệu lực từ ngày 24-4-2023. Việc NHNN sớm hiện thực hóa chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cho thấy mức độ cần thiết, khẩn cấp của những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thông qua hai thông tư này.
Trong bối cảnh nền kinh tế có dấu hiệu suy yếu, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn phải thu hẹp hoạt động, dòng tiền tắc nghẽn, thậm chí đứng trước nguy cơ phá sản, khả năng trả nợ suy giảm, các ngân hàng đang đứng trước rủi ro nợ xấu cao quay trở lại. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy chỉ trong ba tháng đầu năm nay đã có đến 60.200 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước, tương đương 42% tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong năm 2022 là 143.200 doanh nghiệp.
Những khó khăn của các doanh nghiệp đã được nêu ra trong suốt thời gian qua. Hai năm chống chọi với đại dịch Covid-19 khiến nguồn lực của hầu hết doanh nghiệp cạn kiệt, gần đây lại đối mặt với chuỗi cung ứng vẫn bị đứt gãy khiến nguyên vật liệu đầu vào co hẹp hoặc bị tăng giá, đơn hàng xuất khẩu thiếu hụt, sụt giảm, chi phí tài chính gia tăng, khủng hoảng lực lượng lao động,… Vì vậy, những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp như cho phép tái cơ cấu các khoản nợ vay đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Đây là lần thứ hai trong ba năm qua NHNN cho phép các ngân hàng cơ cấu thời gian trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho một số khách vay với thời gian tối đa lên đến 12 tháng, qua Thông tư 02/2023/TT-NHNN. Lần trước, chính sách cơ cấu nợ được ban hành trong giai đoạn cao điểm của dịch Covid-19 và kết thúc vào cuối tháng 6-2022, đã giúp các ngân hàng cũng như doanh nghiệp vượt qua được những khó khăn nhất thời khi đó.
Song song đó, NHNN cũng đã ban hành Thông tư 03/2023/TT-NHNN nhằm góp phần gia tăng thanh khoản, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển thị trường TPDN trong tình hình khó khăn hiện nay theo chủ trương của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, khi cho phép các TCTD mua lại ngay trái phiếu chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trên sàn UpCom mà tổ chức này đã bán ra.
Sau khi Nghị định 08/2023/NĐ-CP được ban hành vào tháng 3, nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tái cơ cấu nợ của doanh nghiệp phát hành trái phiếu, thì có thể thấy hai thông tư (02 và 03) được ban hành cùng lúc với những giải pháp tháo gỡ đồng bộ được kỳ vọng sẽ không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp mà còn giúp hệ thống ngân hàng nói chung và các ngân hàng nói riêng tránh được rủi ro nợ xấu gia tăng đột biến, ảnh hưởng đến các chỉ số an toàn hoạt động.
Chính sách đồng bộ
Cần biết rằng không chỉ rủi ro nợ xấu gia tăng từ các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, khó khăn, mà cả những khách hàng cá nhân vay tiêu dùng cũng đứng trước khả năng trả nợ suy giảm, khi thu nhập bị sụt giảm hoặc mất việc trong thời gian qua. Hệ quả là dư nợ tiêu dùng tại các ngân hàng, công ty tài chính đã và đang tăng mạnh, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất tăng cao gần đây, càng đè nặng áp lực tài chính lên nhóm này.
Trước tình hình này, dễ hiểu vì sao Thông tư 02/2023 đã mở rộng đối tượng được cơ cấu nợ sang cả các khách hàng cá nhân gặp khó khăn trả nợ khoản vay phục vụ đời sống, tiêu dùng.
Cũng trong ngày 23-4, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 59 về giải pháp gỡ khó cho khách hàng vay tiêu dùng và phục vụ đời sống, dựa trên kiến nghị của NHNN. Theo đó, Chính phủ giao NHNN xem xét và sớm ban hành thông tư, có giải pháp hỗ trợ hiệu quả, công khai và đúng quy định với nhóm khách hàng này.
Bên cạnh đó, một trong những nỗi lo ngại lớn nhất thời gian qua chính là “quả bom nổ chậm” TPDN, mà cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng. Dù các doanh nghiệp những tháng qua đã tăng cường mua lại trước hạn các trái phiếu đã phát hành, nhưng lượng TPDN sắp đáo hạn trong những tháng còn lại của năm nay rất lớn. Nếu các doanh nghiệp không thể thanh toán được nợ gốc, lãi đúng hạn, các ngân hàng sẽ phải cư xử ra sao?
Dựa trên thông tin công bố đại chúng, VIS Rating ước tính tỷ lệ nợ xấu TPDN đã tăng lên gần 10% tính đến tháng 3-2023, từ mức 1,2% vào cuối tháng 9-2022. Hãng này cũng ước tính khoảng 113.000 tỉ đồng TPDN đáo hạn trong quí 2 tới quí 4-2023 có nguy cơ không đáp ứng được các nghĩa vụ thanh toán. Còn theo số liệu của Bộ Tài chính trước đó, trong quí 1-2023, có 69 doanh nghiệp phát hành chậm thanh toán gốc, lãi TPDN với tổng giá trị chậm thanh toán khoảng 19.200 tỉ đồng; có 23 tổ chức phát hành có phương án đàm phán với nhà đầu tư với khối lượng khoảng 9.600 tỉ đồng, chiếm 50% khối lượng chậm thanh toán.
Có thể thấy với những khách hàng vừa vay vốn tại ngân hàng vừa có TPDN phát hành cho chính TCTD đó hoặc chỉ chào bán cho các nhà đầu tư khác, một khi doanh nghiệp không thể thanh toán nợ gốc, lãi TPDN đến hạn cho thấy dòng tiền, khả năng thanh toán của doanh nghiệp có vấn đề, rõ ràng khi đó khoản nợ vay tại ngân hàng cũng đứng trước nguy cơ trở thành nợ xấu và buộc các TCTD phải chuyển nhóm khi đánh giá theo phương pháp định lượng/định tính.
Chính vì vậy, việc sớm quy định cho phép ngân hàng tái cơ cấu nợ, giữ nguyên nhóm nợ với khách hàng gặp khó khăn, cũng như cho phép ngân hàng được mua lại ngay TPDN mà TCTD này đã bán ra, sẽ giúp hạn chế nợ xấu của các ngân hàng tăng mạnh trong giai đoạn tới vì bị ảnh hưởng tiêu cực bởi thị trường TPDN. Ngoài ra, việc mua lại cũng giúp các ngân hàng có được vị thế và gây sức ép tốt hơn các nhà đầu tư cá nhân khi đàm phán tái cơ cấu nợ, phương án thanh toán nợ trái phiếu bằng các tài sản khác với tổ chức phát hành TPDN.
Thông tư 02/2023/TT-NHNN quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và khách hàng gặp khó khăn trả nợ khoản vay phục vụ đời sống, tiêu dùng. Thời gian triển khai từ ngày thông tư có hiệu lực cho đến hết ngày 30-6-2024. Các khoản nợ được cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ là các khoản cho vay và cho thuê tài chính. Thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ do TCTD quyết định nhưng không vượt quá 12 tháng kể từ ngày đến hạn của số dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Sau khi cơ cấu, các ngân hàng sẽ phải trích lập dự phòng rủi ro theo lộ trình. Trong đó, dự phòng phải trích bổ sung với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn được thực hiện theo hai giai đoạn: tối thiểu 50% vào ngày 31-12-2023 và trích dự phòng thêm cho đủ 100% vào cuối năm 2024.
Thông tư 03/2023/TT-NHNN dừng hiệu lực thi hành khoản 11, điều 4 Thông tư 16/2021 quy định việc mua, bán TPDN của TCTD, có hiệu lực đến hết năm 2023. Trước đó, theo quy định áp dụng từ năm 2021, ngân hàng chỉ được mua TPDN chưa niêm yết sau 12 tháng từ khi trái phiếu này được bán và chỉ được mua lại chính loại mà TCTD đã bán trước đó. Nay NHNN dừng điều khoản này, đồng nghĩa việc cho phép TCTD mua lại ngay trái phiếu chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trên sàn UpCom mà tổ chức này đã bán ra. Điều kiện là bên mua trái phiếu trước đó đã thanh toán đủ tiền cho TCTD tại thời điểm ký hợp đồng. Đồng thời, doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải được xếp hạng ở mức cao nhất theo quy định xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng.