Theo Phó Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam Hoàng Hồng Giang, do suy thoái kinh tế, giá nhiên liệu và lạm phát tăng cao, nhu cầu vận tải biển giảm mạnh ở nhiều thị trường tiêu thụ lớn; giá cước vận tải đang giảm mạnh đã gây khó khăn cho ngành hàng hải thời gian qua.
Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2023, tổng khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển Việt Nam đạt 362,7 triệu tấn, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó hàng container đạt 11,8 triệu Teus, giảm 8%.
Suy thoái kinh tế, giá nhiên liệu và lạm phát tăng cao; nhu cầu vận tải biển, giá cước giảm mạnh đã gây khó khăn cho ngành hàng hải. Ảnh minh họa.
Đội tàu mang cờ quốc tịch Việt Nam đã đảm nhận được 100% lượng hàng vận tải nội địa bằng đường biển, trừ một số tàu chuyên dụng như LPG, xi măng rời.
Khối lượng hàng hóa do đội tàu biển Việt Nam vận chuyển đạt 68 triệu tấn, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2022. Riêng hàng container đạt 1,3 triệu Teus, tăng 1%.
Ngoài ra lượt tàu biển thông qua cảng biển đạt 48,7 nghìn lượt, giảm 7% so với cùng kỳ năm trước, lượt phương tiện thủy thông qua địa đạt 166,4 nghìn lượt tăng 1% so với cùng kỳ năm trước.
Tính đến tháng 6/2023, Việt Nam có 1.455 tàu biển đăng ký trong Sổ đăng ký tàu biển quốc gia, với tổng trọng tải trên 12 triệu tấn, tổng dung tích trên 7,28 triệu GT (trong đó có 987 tàu vận tải với tổng trọng tải trên 11,2 triệu tấn, tổng dung tích trên 6,67 triệu GT).
Đáng chú ý, đội tàu Việt Nam đứng thứ 3 trong ASEAN và thứ 27 trên thế giới. Hiện đội tàu biển Việt Nam giảm về số lượng so với năm 2022 nhưng tăng về tổng dung tích và tổng trọng tải.
Tàu chở hàng rời và hàng tổng hợp vẫn chiếm chủ yếu với 686 tàu, chiếm 69,57%; 178 tàu chở dầu, hóa chất; 20 tàu chở khí hóa lỏng; 44 tàu chở container và còn có 58 tàu chở khách.
Phó Cục trưởng Hoàng Hồng Giang cho biết, bên cạnh việc các doanh nghiệp trong lĩnh vực hàng hải vẫn còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng chung của dịch bệnh COVID-19 và xung đột quốc tế, nguồn nhân lực cho lĩnh vực hàng hải cũng còn mỏng, đặc biệt là thiếu hụt lực lượng thuyền viên.
Công tác nạo vét duy tu luồng hàng hải còn gặp khó khi các tỉnh, thành phố chưa quy hoạch vị trí đổ chất nạo vét, dẫn đến hàng năm phải mất nhiều thời gian để hoàn thiện các thủ tục.
Đồng thời công tác quản lý giá dịch vụ hàng hải, quản lý tuyến vận tải của hàng tàu nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn. Trong đó việc quản lý tuyến vận tải vẫn chưa có cơ chế và chính sách quản lý.