Bất động sản là thị trường tiêu thụ quan trọng hàng đầu của ngành vật liệu xây dựng. Theo TS. Thái Duy Sâm, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam, trong bối cảnh “khó chồng khó”, trên thang điểm 10, mức độ tác động và ảnh hưởng của bất động sản đến các doanh nghiệp ngành xi măng ở mức 6 - 7 điểm; còn ngành gốm sứ xây dựng, kính xây dựng phải ở mức 8 - 9 điểm.
"60-70% CÁC DOANH NGHIỆP VẬT LIỆU KHÔNG NUNG 'SẮP CHẾT'"
"Bây giờ nói chung là... khó khăn lắm!", đó là câu đầu tiên ông Trần Duy Cảnh, Giám đốc Công ty Cổ phần Cơ khí và Vật liệu xây dựng Thanh Phúc, Ủy viên BCH Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam (VABM) chia sẻ với Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam (Reatimes) khi được hỏi về tình trạng “sức khỏe” của các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng trong bối cảnh hiện nay.
Có thâm niên 35 năm hoạt động trong ngành vật liệu xây dựng, chuyên về vật liệu xây không nung, với bề dày kinh nghiệm và tiềm lực tích lũy nhất định, tuy nhiên ông Cảnh chia sẻ: “Doanh nghiệp của chúng tôi đang phải chống chọi từng tháng một”.
Ở mảng cung cấp máy móc, dây chuyền thiết bị sản xuất gạch cho các doanh nghiệp, ông Trần Duy Cảnh cho biết, hiện nay, có đến khoảng 60 - 70% các doanh nghiệp vật liệu không nung trên toàn quốc “sắp chết”, sản xuất ra nhưng không tiêu thụ được.
“Công trình ít, doanh nghiệp sản xuất thì nhiều nên tính cạnh tranh cao. Nhà đầu tư thì luôn tìm cách dìm giá xuống. Cuối cùng là giá bán quá thấp nhưng chất lượng và thi công không đảm bảo… Các doanh nghiệp mua máy của chúng tôi rất nhiều nhưng bây giờ không có việc làm”, ông nói.
Không nằm ngoài thực trạng khó khăn chung của các doanh nghiệp trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, ông Đinh Hồng Kỳ, Phó Chủ tịch VABM, Phó Chủ tịch thường trực, Tổng thư ký Hiệp hội Xây dựng và Vật liệu xây dựng TP.HCM (SACA), Chủ tịch HĐQT Hệ thống Công ty Secoin chia sẻ với Reatimes một vài con số cụ thể về tình trạng hoạt động của chính doanh nghiệp mình.
Secoin được thành lập và đi vào hoạt động đã 34 năm, có 9 nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng trên cả nước, cung ứng cho hầu hết các dự án trọng điểm của các nhà phát triển bất động sản lớn, xuất khẩu sản phẩm đi 60 nước và là một trong những doanh nghiệp xuất khẩu vật liệu xây dựng lớn nhất Việt Nam. Dù là doanh nghiệp lớn như vậy, nhưng Secoin cũng đang phải chịu ảnh hưởng không hề nhẹ.
“So với những thời kỳ cao điểm, sản lượng xuất khẩu hiện nay của Secoin sụt giảm 70%. Nguyên nhân là do thị trường thế giới chịu ảnh hưởng hậu Covid-19, vấn đề xung đột, suy thoái kinh tế, lạm phát…, dẫn đến lượng cầu trên các thị trường quốc tế sụt giảm nghiêm trọng. Đó là bức tranh rất rõ ràng của thị trường xuất khẩu vật liệu xây dựng, cũng là bức tranh chung của lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với thị trường trong nước, sản lượng của Secoin sụt giảm khoảng 60%, do đối tượng tiêu thụ các sản phẩm chủ yếu đến từ các dự án bất động sản.
Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi phải tập trung mạnh vào việc xoay trục, chuyển hướng sang các đối tượng bán lẻ nhà dân, thông qua các hệ thống đại lý; tập trung vào các dự án đầu tư công, đặc biệt là các dự án đường cao tốc, sân bay mà hiện nay Nhà nước đang tập trung rất mạnh mẽ với quyết tâm chính trị cao”, ông Đinh Hồng Kỳ cho biết.
Thị trường bất động sản giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế; nó có tác động dẫn dắt, thúc đẩy hàng loạt các ngành, nghề, lĩnh vực khác cùng phát triển, từ thi công xây lắp, sản xuất xi măng, thép, các loại vật liệu xây dựng, các trang thiết bị… Tuy nhiên, hiện nay, thị trường bất động sản Việt Nam đang chững lại, thậm chí “đóng băng” ở nhiều phân khúc và khu vực, khiến hàng loạt lĩnh vực khác cũng gặp rất nhiều khó khăn.
“Các doanh nghiệp trong ngành xây dựng và vật liệu xây dựng tập trung vào thị trường bất động sản hầu như đang “đứng hình”, dừng hoạt động một cách hết sức đột ngột. Các dự án bất động sản bị dừng, không triển khai được khiến các doanh nghiệp ngành xây dựng và cung ứng vật liệu xây dựng cũng “đứng” theo luôn.
Dù các doanh nghiệp đã lường trước về việc thị trường sẽ khó khăn, nhưng một cú sốc như vậy gây ra sự sụt giảm về mặt doanh thu quá lớn, dẫn đến không ít doanh nghiệp phải cơ cấu lại hoạt động sản xuất, cắt giảm lực lượng lao động…”, ông Kỳ nhấn mạnh về sự khó khăn của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng.
Dù 2 - 3 năm trở lại đây, Chính phủ đã hết sức quyết liệt đẩy mạnh đầu tư công, đặc biệt là các dự án hạ tầng kỹ thuật để kéo lại sự cân bằng phần nào cho thị trường, tạo công ăn việc làm cho ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, nhưng những tháng đầu năm, các hội, hiệp hội trong lĩnh vực này lần lượt có báo cáo cho thấy sự sụt giảm của ngành.
Bàn luận xoay quanh thực tế này, Reatimes đã có cuộc trao đổi với TS. Thái Duy Sâm, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng).
TS. Thái Duy Sâm - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam,
NGÀNH VẬT LIỆU XÂY DỰNG "ĐỨNG HÌNH"
PV: Thưa ông, trao đổi với chúng tôi, lãnh đạo các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng đều bày tỏ sự lo ngại. Ông Đinh Hồng Kỳ, Phó Chủ tịch VABM cho rằng doanh nghiệp đang phải “thở oxy”; ông Trần Duy Cảnh, Ủy viên BCH VABM cho biết, không ít doanh nghiệp “sắp chết”. Ông đánh giá như thế nào về những phản ánh này?
TS. Thái Duy Sâm: Cũng như mọi ngành, nghề, lĩnh vực khác, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động như hiện nay đã gây ra không ít khó khăn, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng.
Từ năm 2020 đến nay, đặc biệt là 6 tháng đầu năm 2023, tình hình sản xuất kinh doanh ngành vật liệu xây dựng liên tục giảm sút qua thời gian và gặp rất nhiều khó khăn, trong đó nổi bật nhất là vấn đề tắc nghẽn đầu ra tiêu thụ sản phẩm chủ yếu sử dụng cho các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp.
Đối với ngành xi măng, theo số liệu của Bộ Xây dựng, trong 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng sản xuất xi măng ước đạt 39 triệu tấn, giảm 7%; tiêu thụ xi măng đạt 43 triệu tấn, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2022 (trong đó, tiêu thụ nội địa đạt 29 triệu tấn, giảm 8% so với cùng kỳ năm 2022; xuất khẩu sản phẩm xi măng và clinker đạt 14 triệu tấn, giảm 15% so với cùng kỳ năm 2022). Trước đó, sản lượng sản xuất năm 2022 (99,7 triệu tấn) cũng giảm so với năm 2021 (108 triệu tấn).
Về ngành gốm sứ xây dựng (bao gồm gạch ốp lát và sứ vệ sinh), năm 2020 gạch ốp lát Việt Nam đạt tới công suất 800 triệu m2, đứng thứ 4 thế giới. Tuy nhiên, hiện nay cũng giảm sút, sản lượng sản xuất chỉ đạt 50 - 60% tổng công suất thiết kế. Tiêu thụ chỉ đạt 80% sản lượng, còn lại lượng tồn kho khá lớn. Đầu ra tiêu thụ khó khăn.
Với ngành kính, năm 2019, hoạt động sản xuất kinh doanh còn khá, nhưng đến năm 2020 giảm dần do chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19. Các năm sau đó đến nay đều giảm, nhìn chung là giảm khoảng 50% so với thời điểm năm 2019. Theo Hiệp hội Kính và Thủy tinh Việt Nam, doanh thu toàn ngành 6 tháng đầu năm 2023 ước giảm 70 - 80% so với cùng kỳ, đánh dấu một thời kỳ suy giảm dài và liên tục. Hiện nay, lượng tồn kho lũy kế các năm của các doanh nghiệp vào khoảng 6 tháng sản xuất.
Biểu đồ: Sản lượng xi măng trong 4 năm qua và quý I/2023. Đơn vị: Triệu tấn.
PV: Có thể thấy rõ những tác động của suy giảm kinh tế đến hoạt động của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng. Sản lượng sản xuất và tiêu thụ đều đang lao dốc mạnh mẽ. Ông có thể phân tích rõ hơn nguyên nhân của những khó khăn này?
TS. Thái Duy Sâm: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm này, nhưng một trong những nguyên nhân chính là do thị trường bất động sản không phát triển, thậm chí là suy giảm mạnh, dẫn đến ngành vật liệu xây dựng cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Tất nhiên, ảnh hưởng của bất động sản đến từng lĩnh vực của ngành vật liệu xây dựng có khác nhau.
Với ngành xi măng, ngoài việc đưa vào các công trình, dự án bất động sản, sản phẩm này có thể tiêu thụ cho các dự án xây dựng hạ tầng giao thông, đường sá, cầu cống, thủy lợi, thủy điện, đồng thời cũng xuất khẩu một phần tương đối.
Ngành gốm sứ xây dựng, gạch ốp lát sử dụng chủ yếu cho các công trình nhà ở, công trình xây dựng dân dụng… Do đó, khi thị trường bất động sản gặp khó khăn, những sản phẩm này rất bí đầu ra, không biết tiêu thụ bằng cách nào, ngoài tiêu thụ một phần vào việc xây dựng, sửa chữa, cải tạo nhà dân. Lượng sản xuất và tiêu thụ chỉ đạt khoảng 50% công suất thiết kế.
Bảng: Sản lượng sản xuất ngành gốm sứ xây dựng các năm 2021, 2022 và quý I/2023. Từ năm 2021, lượng sản xuất chỉ đạt khoảng 50 - 60% sản lượng đầu tư.
Bên cạnh đó, ngành kính cũng chủ yếu sử dụng cho các công trình xây dựng, bất động sản nên sụt giảm đáng kể. Từ tháng 4/2022 đến nay, thị trường bất động sản đi vào chu kỳ suy giảm nghiêm trọng, do đó, nhu cầu của thị trường này với các sản phẩm kính xây dựng giảm tới mức rất thấp.
Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp sản xuất đều phải giảm sản lượng và hoạt động cầm chừng. Bên cạnh một số doanh nghiệp ngành xi măng phải giảm sản lượng, một số nhà máy nhỏ (công suất khoảng 1.000 tấn clinker/ngày) gặp nhiều khó khăn nên phải dừng lò.
Hoạt động sản xuất của doanh nghiệp ngành kính cũng giảm khoảng 50% so với năm 2019, mà 6 tháng đầu năm 2023 cũng giảm khoảng 20 - 30% so với cùng kỳ năm 2022. Hay gốm sứ xây dựng cũng phải giảm sản lượng.
So với năm 2019 và trước dịch, những mức giảm này tương đối lớn, năm này qua năm khác càng ngày càng giảm.
PV: Trên thang điểm 10, ông đánh giá mức độ tác động và ảnh hưởng của bất động sản đến các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng ở mức nào?
TS. Thái Duy Sâm: Như đã nói, tùy từng lĩnh vực vật liệu xây dựng sẽ chịu mức độ tác động khác nhau. Theo tôi, ngành xi măng ở mức 6 - 7 điểm; còn ngành gốm sứ xây dựng, kính xây dựng phải ở mức 8 - 9 điểm, bởi nó hoàn toàn phụ thuộc vào bất động sản.
Bảng: Lượng tiêu thụ của khối doanh nghiệp sản xuất kính xây dựng từ năm 2019 đến 2023.
PV: Ngoài nguyên nhân do sự chững lại của thị trường bất động sản, những khó khăn của ngành vật liệu xây dựng còn đến từ đâu?
TS. Thái Duy Sâm: Bên cạnh sự tác động của thị trường bất động sản làm giảm tiêu thụ nội địa, ngành vật liệu xây dựng còn gặp khó khăn bởi dịch Covid-19 vẫn để lại những ảnh hưởng âm ỉ. Từ khi dịch xuất hiện rồi sau đó lại đến tình hình căng thẳng giữa Nga - Ukraine... Tình hình kinh tế thế giới biến động bất ổn, dẫn đến nhu cầu tiêu thụ nói chung và tiêu thụ vật liệu xây dựng nói riêng cũng giảm đi, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Một số nguyên nhân khác khiến hoạt động sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng đều giảm là chi phí đầu vào như điện, nhiên liệu than, logistics… đều tăng lên. Theo đó, đầu ra cũng có tăng, nhưng mức tăng chưa đáp ứng được với đầu vào. Nhiều khó khăn như vậy nên đầu ra không tiêu thụ được là bao.
"HÀNG RÀO KỸ THUẬT BẢO VỆ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC CÒN YẾU"
PV: Cụ thể hơn, ông có thể cho biết trong hoạt động sản xuất, khó khăn chủ quan và khách quan mà các doanh nghiệp hiện gặp phải là gì?
TS. Thái Duy Sâm: Về yếu tố chủ quan, thứ nhất, hiện nay có tình trạng một số doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng đầu tư các dây chuyền công nghệ kém hiện đại, tiên tiến nên ảnh hưởng đến chất lượng cũng như giá thành sản phẩm. Chất lượng chưa cao nhưng giá thành lại cao.
Một số doanh nghiệp cũng có sản phẩm chất lượng chưa thực tốt, nhưng vẫn đưa ra thị trường làm tâm lý của người tiêu dùng không tin tưởng, ảnh hưởng đến sức tiêu thụ.
Thứ hai, hoạt động quản trị doanh nghiệp của phần lớn doanh nghiệp vật liệu xây dựng còn chưa tốt và chưa đạt được hiệu quả như kỳ vọng, làm ảnh hưởng đến việc sản xuất và tiêu thụ.
Thứ ba, năng lực tài chính của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Về khách quan, thứ nhất như đã nói, là do vấn đề thị trường. Tình hình thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng đến lĩnh vực vật liệu. Ví dụ như một số nguyên liệu chúng ta phải nhập khẩu từ nước ngoài, nhưng do biến động của thế giới nên không nhập được.
Thứ hai, ở trong nước, thị trường bất động sản và đầu tư công còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc. Dù Chính phủ đã quyết liệt, tích cực đôn đốc nhưng tình hình giải ngân vốn đầu tư công vẫn chưa đáp ứng được như mong muốn, thành ra tiêu thụ vật liệu vào đầu tư công cũng giảm.
Thứ ba là một số vướng mắc về chính sách tài chính, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng cũng rất khó khăn. Mặc dù liên tục kêu gọi giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục vay, nhưng ngân hàng cũng là doanh nghiệp, họ cũng kinh doanh nên vẫn phải cân đối để tránh nợ xấu. Do đó, ngân hàng kiểm soát chặt chẽ tiếp cận nguồn vốn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên còn rất nhiều khó khăn.
Thứ tư, cơ chế chính sách có những lúc cũng chưa thật ổn định, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trong ngành. Ví dụ như vấn đề giảm mạnh thuế nhập khẩu gốm sứ, gạch ốp lát từ Ấn Độ hay việc tăng thuế xuất khẩu clinker từ 5% lên 10% kể từ ngày 1/1/2023…
PV: Cụ thể hơn, triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu ảm đạm, rào cản thương mại ở các nước gây ra những thách thức như thế nào đối với hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp vật liệu xây dựng Việt Nam, thưa ông?
TS. Thái Duy Sâm: Nhìn chung, lĩnh vực nào có lợi thế thì khuyến khích xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu vật liệu xây dựng nhiều hay ít khác nhau, tùy vào từng ngành, lĩnh vực.
Theo Chiến lược Phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050 được phê duyệt tại Quyết định 1266/QĐ-TTg ngày 18/08/2020, xi măng chỉ nên xuất khẩu khoảng 25% sản lượng, do đây là ngành sản xuất tiêu tốn nhiều năng lượng, lại tiêu thụ tài nguyên khoáng sản không tái tạo, có thể ảnh hưởng đến môi trường… Trên thực tế, có những năm xuất khẩu lên tới khoảng 40% sản lượng.
Tuy nhiên, xuất khẩu xi măng những năm gần đây có xu hướng giảm. Như tôi đã phân tích, hiện nay ngành xi măng đang gặp khó khăn bởi thuế xuất khẩu clinker thay đổi tăng, bắt đầu áp dụng từ năm 2023 (theo Nghị định số 101/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP và Nghị định số 57/2020/NĐ-CP). Chính sách này được ban hành từ năm 2021, đến nay bắt đầu có hiệu lực, nhưng không may lại gặp đúng thời điểm kinh tế khó khăn.
Điều này khiến hoạt động xuất khẩu giảm. Các năm trước đây, ngành xi măng sản xuất khoảng 100 triệu tấn, tiêu thụ trong nước khoảng 65 - 69 triệu tấn; còn xuất khẩu khoảng 35 triệu tấn, tương đương khoảng 1/3. Thế nhưng, năm 2022 xuất khẩu đạt 32 triệu tấn xi măng và clinker, giảm so với năm 2021 (45,7 triệu tấn). 6 tháng đầu năm 2023 mới xuất khẩu được khoảng 15 triệu tấn, tiếp tục giảm khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2022.
Đối với những ngành khác như gốm sứ xây dựng, chúng ta cũng khuyến khích xuất khẩu nhưng chưa được nhiều. Ngành vật liệu xây dựng cũng có đặc thù là khối lượng nặng nên khi xuất khẩu thì giá vận chuyển cao, hiệu quả nhiều khi cũng thấp.
Trong khi đó, xuất khẩu giảm nhưng nhập khẩu một số lĩnh vực lại tăng. Đơn cử, Hiệp hội Gốm sứ xây dựng Việt Nam cho biết, sản phẩm gốm ốp lát của Ấn Độ tràn ngập thị trường Việt Nam, lại được bán với giá rẻ hơn so với sản phẩm của ta, ảnh hưởng đến sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam.
Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là do thuế nhập khẩu sản phẩm này giảm mạnh theo lộ trình của Hiệp định thương mại ASEAN - Ấn Độ (ký kết ngày 13/8/2009, có hiệu lực ngày 1/1/2010). Trước đây, các sản phẩm này nhập khẩu vào Việt Nam chịu thuế 35%, nhưng từ năm 2022 đã giảm xuống còn 5% và còn tiếp tục giảm, khiến sản phẩm khi vào thị trường Việt Nam được bán với giá rất rẻ để cạnh tranh.
Đầu tháng 6 vừa qua, tại Tọa đàm bàn về những khó khăn, vướng mắc làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất hiện nay với sự tham gia của 8 Hội, Hiệp hội đại diện các nhà sản xuất và cung ứng vật liệu xây dựng, Hiệp hội Thép Việt Nam cũng có ý kiến về tình trạng thép Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam với thuế nhập khẩu rất thấp hoặc bằng 0%, gây ảnh hưởng cho doanh nghiệp nội, khiến doanh nghiệp Việt Nam rất khó cạnh tranh. Tất nhiên, chúng ta không thể cấm nhập khẩu, nhưng cần có giải pháp để đảm bảo sự cân đối, hài hòa và bảo vệ doanh nghiệp trong nước.
Trên thực tế, hàng rào kỹ thuật bảo vệ sản xuất trong nước lại đang rất yếu. Ở các quốc gia khác, việc điều tra chống bán phá giá cũng được thực hiện với sản phẩm của Việt Nam, nhưng ngược lại, chủ trương thực hiện điều tra sản phẩm các nước khác của Việt Nam lại chưa thực sự tích cực.
Như lĩnh vực gốm sứ xây dựng, Hiệp hội mấy năm nay đề xuất áp dụng kiểm tra đầu nguồn, sang nước bạn để kiểm tra xuất xứ sản phẩm nhưng chưa được cơ quan quản lý chấp thuận. Trong khi đó, các nước nhập sản phẩm của Việt Nam cũng cử người sang nước ta để kiểm tra và đưa ra các chính sách bảo hộ, chống bán phá giá.
PHỤC HỒI THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC CÓ Ý NGHĨA "SỐNG CÒN"
PV: Trong nửa đầu năm 2023, có hàng chục nghìn doanh nghiệp rút lui, rời khỏi thị trường. Đối với nhóm ngành vật liệu xây dựng, con số này như thế nào và có ở mức đáng báo động không, thưa ông?
TS. Thái Duy Sâm: Các doanh nghiệp vật liệu xây dựng cũng chịu ảnh hưởng rất lớn, hệ lụy là rất rõ ràng. Nhưng tôi suy nghĩ và cũng kỳ vọng rằng, đây chỉ là tình trạng tạm thời khi các doanh nghiệp rút khỏi thị trường bằng cách giảm sản lượng để giảm tồn kho, hạn chế ảnh hưởng đến tài chính, bởi đã đầu tư xây dựng nhà máy thì cũng chỉ tạm dừng một thời gian, bỏ hẳn thì không được.
PV: Hiện nay, xuất khẩu khó khăn, mà đây là vấn đề phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, chúng ta khó có thể kiểm soát. Lúc này, điều chúng ta có thể cải thiện nhanh là thị trường nội địa, nhưng như ông trao đổi, cũng đang rất bí đầu ra. Trong bối cảnh đó, việc phục hồi thị trường trong nước có ý nghĩa như thế nào?
TS. Thái Duy Sâm: Theo nhận định của chúng tôi, đầu ra cho ngành vật liệu xây dựng đang bế tắc. Vì thế, trong bối cảnh hiện nay, việc phục hồi thị trường nội địa có ý nghĩa “sống còn”. Đặc biệt, cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản và thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công.
Thị trường bất động sản ngưng trệ, không phát triển được gây ra ảnh hưởng đến rất nhiều ngành nghề chứ không riêng vật liệu xây dựng. Nhưng có thể nói, vật liệu xây dựng là một trong những ngành chịu ảnh hưởng lớn nhất. Các sản phẩm như gốm sứ xây dựng, kính xây dựng gần như phụ thuộc hoàn toàn vào bất động sản. Đó là nguồn tiêu thụ chính, ngoại trừ một phần tiêu thụ của nhà dân xây dựng, sửa chữa nhỏ.
Ngành xi măng thì đỡ hơn, ngoài tiêu thụ trong bất động sản thì sản phẩm này còn tiêu thụ được vào lĩnh vực khác, đặc biệt là các hạ tầng kỹ thuật, làm đường cao tốc… Vậy mà tiêu thụ nội địa không tăng, thậm chí trong mấy năm gần đây còn giảm. Trước đây, xuất khẩu còn tốt, nhưng hiện nay cũng giảm. Không ít công ty phải giảm sản lượng sản xuất; một số doanh nghiệp công nghệ chưa hiện đại nên phải dừng sản xuất, bởi vì càng sản xuất càng lỗ.
Tuy nhiên, ngành vật liệu xây dựng hiện nay đang tồn tại một mâu thuẫn: Có những thứ mình làm ra được thì không tiêu thụ được; có những thứ cần tiêu thụ nhiều, cầu lớn thì cung lại chưa đáp ứng được. Như vật liệu để làm đường cao tốc, chỉ có đất với cát thôi nhưng vẫn không có để đáp ứng đủ yêu cầu.
Vấn đề này chúng tôi cũng có một gợi ý. Cùng một khoảng thời gian, chúng ta triển khai nhiều dự án đường cao tốc, mà làm đường cao tốc chủ yếu là dùng đất cát đắp nền. Trong khi chúng ta lại chuẩn bị không kỹ, trước khi thiết kế đáng nhẽ cần tính toán có nguồn vật liệu để cung cấp, đáp ứng được khối lượng cần có, nhưng lại chưa chuẩn bị được các mỏ này. Điều này khiến cho khi đưa vào triển khai hàng loạt công trình, nhu cầu tăng đột biến lại thiếu nguồn vật liệu.
Hiện nay, Chính phủ yêu cầu phải tăng cường đưa các mỏ vào khai thác thì một số vùng ở miền Bắc, miền Trung còn có những mỏ vật liệu san lấp đắp nền đường, nhưng trong miền Nam lại rất thiếu. Tuy chúng ta có nghiên cứu sử dụng thêm cát biển nhưng chưa đáp ứng được.
Thủ tướng yêu cầu các tỉnh phải đơn giản hóa thủ tục cấp phép; các mỏ không giao cho các chủ đầu tư khác mà giao trực tiếp cho nhà thầu xây dựng đường. Thế nhưng, nhà thầu muốn làm được còn phải đền bù, giải phóng mặt bằng…, thủ tục phụ thuộc vào từng địa phương nên còn nhiều vướng mắc.
“SỰ ẢNH HƯỞNG HIỆN NAY LỚN HƠN VÀ DÀI HƠN CUỘC KHỦNG HOẢNG 10 NĂM VỀ TRƯỚC”
PV: Việc Chính phủ tích cực tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản nhằm khơi thông những dự án đang triển khai dang dở ở giai đoạn trước, được kỳ vọng sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng “hệ sinh thái” đi cùng như xây dựng, vật liệu xây dựng. Sau nửa năm 2023 tích cực tháo gỡ các khó khăn, ông đánh giá mức độ lan tỏa trong "hệ sinh thái" này đã có sự chuyển dịch như thế nào?
TS. Thái Duy Sâm: Thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã và đang lắng nghe, đưa ra nhiều biện pháp nhằm nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản từ cuối năm 2022 đến nay. Gần đây, đã có những kết quả mang tín hiệu tích cực cho cộng đồng doanh nghiệp ngành bất động sản. Tuy nhiên, tôi cho rằng những chuyển biến vẫn còn chậm, bởi nhìn từ ngành vật liệu xây dựng, chưa thực sự có tiến triển lớn.
Trên thực tế, như Đề án đầu tư xây dựng ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030, quá trình triển khai vẫn còn không ít vướng mắc, chưa có nhiều dự án được thực hiện. Gói 120.000 tỷ đồng của 4 ngân hàng thương mại nhà nước cũng chưa cho vay được nhiều, số liệu báo chí thông tin gần đây là mới giải ngân được khoảng 95 tỷ đồng và cam kết cho vay 950 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, việc sửa đổi các bộ luật liên quan đến thị trường này là Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản còn đang tiếp tục thảo luận. Dự kiến thông qua tại Kỳ họp tháng 10 này, tuy nhiên để Luật đi vào cuộc sống thì cũng còn cần thêm một khoảng thời gian khá dài nữa.
Chúng tôi kỳ vọng rằng thời gian tới, từ những chỉ đạo tích cực, quyết liệt tháo gỡ khó khăn của Chính phủ, thị trường bất động sản sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ, tiến triển tích cực hơn, để ngành vật liệu xây dựng cũng sẽ đỡ khó khăn hơn.
PV: So với thời kỳ thị trường bất động sản khủng hoảng, đóng băng những năm 2011 - 2013, ông đánh giá hiện nay các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng gặp phải những khó khăn có điểm giống và khác như thế nào?
TS. Thái Duy Sâm: Giai đoạn 2011 - 2013, do khủng hoảng kinh tế, thị trường bất động sản đóng băng, các công trình xây dựng nói chung và dự án bất động sản nói riêng đều đình trệ.
Thời điểm đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 567/QĐ-TTg tháng 4/2010 về phát triển vật liệu xây dựng không nung. Trong quá trình đi phổ biến, vận động doanh nghiệp thực hiện chính sách này, chúng tôi ghi nhận doanh nghiệp chịu ảnh hưởng khá lớn. Một số nhà máy sản xuất vật liệu xây không nung vừa ra lại gặp khủng hoảng, dẫn đến tiêu thụ giảm sút.
Giai đoạn hiện nay, kinh tế thế giới có nhiều biến động, nền kinh tế nước ta có độ mở lớn cũng chịu không ít ảnh hưởng. Đối với thị trường bất động sản, do một số sự việc đáng tiếc mà nhà đầu tư mất niềm tin và duy trì tâm lý thận trọng trong mọi quyết định, vì thế thị trường cũng trong đà suy giảm và chững lại suốt từ quý cuối năm 2022 đến nay.
Dễ thấy, điểm giống nhau là khi thị trường bất động sản khó khăn thì ngành vật liệu xây dựng là một trong những ngành đương nhiên chịu ảnh hưởng đầu tiên và nặng nề.
Tuy nhiên, so với giai đoạn cách đây chục năm với thời điểm này, chúng tôi nghĩ sự ảnh hưởng hiện nay lớn hơn và dài hơn. Bởi từ khi dịch Covid-19 xuất hiện đầu năm 2020, đến nay lại thêm nguy cơ khủng hoảng kinh tế toàn cầu, căng thẳng địa chính trị… đã gần 4 năm và chúng ta vẫn chưa thấy nhiều tín hiệu phục hồi rõ nét, nên cũng khó nói trước được điều gì.
“VẤN ĐỀ ĐẶT RA BÂY GIỜ LÀ VAY ĐỂ LÀM GÌ,BỞI CÀNG SẢN XUẤT CÀNG LỖ”
PV: Mới đây, đại diện Ngân hàng Nhà nước thông tin, tín dụng tiêu dùng bất động sản trong 6 tháng đầu năm giảm 1,12% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong khi đó, các doanh nghiệp chia sẻ hiện nay đang phải xoay trục hoạt động hướng vào đối tượng khách hàng nhà dân. Nhìn vào thể trạng của doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng và con số công bố của Ngân hàng Nhà nước cho thấy điều gì, thưa ông?
TS. Thái Duy Sâm: Tôi cho rằng, con số này phần nào đó cho thấy sự ảm đạm chung của thị trường bất động sản, kéo theo đó là những ngành liên quan mật thiết như vật liệu xây dựng.
Chúng tôi cho rằng, những người cần nhà, có nhu cầu ở thực thì chưa mua được nhà. Những người mua được thì trong bối cảnh thị trường ảm đạm như hiện nay, họ cũng chưa mua ngay. Bên cạnh đó, một lượng lớn người mua kinh doanh đầu cơ, có nhu cầu vay ngân hàng nhưng giai đoạn vừa rồi, lãi suất ở mức rất cao, nên họ cũng phải tạm dừng hoạt động mua bán, dẫn đến tín dụng tiêu dùng bất động sản giảm.
Một trong những nguyên nhân là do quy hoạch, chiến lược phát triển bất động sản còn những bất cập, phát triển nhiều bất động sản cao cấp, trong khi nhu cầu cần nhiều hơn như nhà ở xã hội, nhà ở thương mại giá rẻ, phù hợp túi tiền lại thiếu cung. Nghịch lý chúng ta vẫn thấy là bao nhiêu biệt thự bỏ hoang, có những dự án để không cả chục năm cỏ mọc um tùm, trong khi nhiều công nhân, người thu nhập thấp không mua được nhà.
PV: Hiện nay, có thực tế là “sức khỏe” của doanh nghiệp đã bị bào mòn và suy yếu đi sau gần 4 năm chống chịu với nhiều biến động, dẫn đến doanh nghiệp muốn vay để tiếp tục sản xuất kinh doanh nhưng không đáp ứng được điều kiện cho vay. Chưa kể, lãi suất cho vay hiện nay vẫn được đánh giá là cao. Khối doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng có gặp tình trạng tương tự khi tiếp cận vốn tín dụng không?
TS. Thái Duy Sâm: Đối với nhóm doanh nghiệp vật liệu xây dựng, vấn đề đặt ra bây giờ là vay để làm gì. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm mà hạn chế đầu ra thì sản xuất để làm gì, càng sản xuất thì lượng tồn kho càng lớn, ảnh hưởng đến tài chính của doanh nghiệp.
Trước tiên, quan trọng nhất là có giải pháp để kích cầu, tháo gỡ đầu ra. Bán được nhiều, tiêu thụ được sản phẩm thì khi ấy, doanh nghiệp sẽ vay để sản xuất kinh doanh.
Đương nhiên, lãi suất cao cũng là vấn đề gây ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp, vì lãi suất được tính vào chi phí đầu vào, là một trong những nguyên nhân làm tăng giá thành sản phẩm lên, khiến khó tiêu thụ, sức cạnh tranh giảm đi. Do đó, lãi suất càng thấp càng tốt cho doanh nghiệp.
DOANH NGHIỆP NGÀNH VẬT LIỆU CŨNG CẦN TỰ XEM LẠI MÌNH VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
PV: Trong bối cảnh đó, đầu tư công là giải pháp quan trọng để kích cầu thị trường vật liệu xây dựng?
TS. Thái Duy Sâm: Đúng vậy. Thời gian qua, Chính phủ đã tích cực thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công. Đây được xem là một giải pháp quan trọng để kích thích tổng cầu, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng. Việc xây dựng các tuyến đường cao tốc trên cả nước nói chung và tại vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng đang được Chính phủ tập trung chỉ đạo rất khẩn trương.
Tuy nhiên, trên thực tế, trái ngược với việc ứ đọng các sản phẩm vật liệu xây dựng cần cho phát triển nhà ở thì nguồn vật liệu thông thường trong xây dựng đường cao tốc như cát và đất đắp nền lại rất thiếu tại đồng bằng sông Cửu Long.
Do đó, các Hội, Hiệp hội ngành vật liệu xây dựng đã đề xuất tập trung xây dựng các tuyến đường trên cao (cầu cạn) tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long để trước tiên giải quyết việc thiếu hụt nguồn cát và đất đắp nền đường tại vùng này. Trong miền Trung là địa bàn lũ lụt nhiều, còn miền Nam thì nền đất yếu nên giải pháp này sẽ hạn chế bị ảnh hưởng lún, sụt, không ngăn cản các dòng thoát lũ. Làm đường như vậy cũng sẽ kích cầu tiêu thụ được cho ngành xi măng, thép, bê tông, cát sỏi; đồng thời cũng giảm được công sức và chi phí trong giải phóng mặt bằng vì diện tích đất không nhiều.
PV: Để doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng có thể tồn tại và vượt qua giai đoạn khó khăn và về lâu dài có thể phát triển bền vững, theo ông cần có những nhóm giải pháp gì?
TS. Thái Duy Sâm: Chúng tôi - đại diện 8 Hội, Hiệp hội khối sản xuất và cung ứng vật liệu xây dựng đã có những trao đổi thông qua các buổi tọa đàm thảo luận và thống nhất một số giải pháp, kiến nghị đề xuất lên Ban Kinh tế Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ:
Cụ thể, thứ nhất, cần có sự điều chỉnh kịp thời về Chiến lược phát triển nhà ở mà cụ thể là sớm điều chỉnh tỷ lệ giữa phân khúc nhà ở thương mại với nhà ở xã hội nhằm giải quyết triệt để tình trạng nhiều biệt thự, nhà liền kề, căn hộ cao cấp rải rác khắp nơi không có người ở, trong khi người thu nhập thấp và công nhân các khu công nghiệp lại không có nhà để ở.
Thứ hai, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất khi lập quy hoạch thiếu sự đồng bộ với quy hoạch đô thị mà trong đó cần có khu nhà ở công nhân. Vì vậy, để sớm triển khai xây dựng các khu nhà ở xã hội, nhà ở công nhân theo Đề án 1 triệu căn hộ thì cần sớm hoàn thành việc sửa đổi Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các luật khác có liên quan để tạo thuận lợi về quỹ đất và các thủ tục hành chính cho Chương trình này.
Cần gắn trách nhiệm của các nhà đầu tư khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc biệt là các chủ sử dụng lao động, các nhà đầu tư nhà máy, xí nghiệp trong các khu công nghiệp đó với việc đảm bảo nơi ăn ở, sinh hoạt của người lao động.
Bên cạnh đó, cần hình thành các thiết kế mẫu phù hợp cho từng loại căn hộ, khối nhà và tiểu khu nhà ở xã hội phù hợp với đặc điểm khí hậu và điều kiện đất đai ở từng vùng khác nhau; thi công xây dựng nhà ở xã hội nên thực hiện theo phương pháp lắp ghép để đảm bảo đồng bộ về chất lượng và đặc biệt là tiến độ xây dựng.
Chúng tôi đề xuất thực hiện đấu thầu xây lắp sau khi đã có thiết kế, dự toán nhằm giảm giá thành xây dựng, đồng thời làm cơ sở xác định các mức giá cho thuê, thuê mua và mua ở từng địa điểm giúp người lao động cân đối được chi phí ăn ở và sinh hoạt.
PV: Về phía các doanh nghiệp vật liệu xây dựng, cần làm gì để tồn tại qua giai đoạn khó khăn hiện nay, thưa ông?
TS. Thái Duy Sâm: Nhìn chung, mỗi lĩnh vực cần có những biện pháp thích ứng riêng trong bối cảnh khó khăn, nhưng chung quy lại, chúng tôi cho rằng có một số vấn đề:
Thứ nhất, doanh nghiệp cũng cần tự xem xét lại và làm sao nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình. Đầu tiên, cần ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm; thứ hai là giảm chi phí đầu vào để giảm giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh về giá. Để làm được cả hai điều đó, giải pháp là cần đầu tư đổi mới công nghệ tiên tiến hiện đại; ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất, quản lý, áp dụng các giải pháp tiết kiệm.
Đặc biệt, các doanh nghiệp luôn cần lưu ý đến vấn đề môi trường như giảm phát thải, sản xuất xanh, ứng dụng các giải pháp kinh tế tuần hoàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như trong ngành xi măng, có thể đầu tư dây chuyền phát điện sử dụng khí thải của lò nung, như vậy sẽ tiết kiệm được năng lượng, giảm được 20 - 25% năng lượng điện tiêu thụ, đồng thời cũng sẽ giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đem lại lợi ích cho xã hội. Bên cạnh đó, cũng có thể tận dụng các phế thải, chất thải của các ngành công nghiệp khác để làm nguyên liệu, nhiên liệu thay thế trong sản xuất vật liệu xây dựng, ví dụ như tro xỉ nhiệt điện, thạch cao của các nhà máy phân hóa chất…
Một giải pháp mà thế giới đã ứng dụng, tại Việt Nam cũng đã có nhưng chưa được phổ biến là sử dụng chất thải, rác thải sinh hoạt của thành phố để làm nhiên liệu thay thế, giúp giảm một phần chi phí.
Thứ hai, các doanh nghiệp ngành vật liệu xây dựng cũng cần tăng cường khâu tiếp thị để bán hàng, linh hoạt mở rộng thị trường, tìm kiếm những thị trường xuất khẩu mới để tăng tiêu thụ sản phẩm và vượt qua được giai đoạn khó khăn hiện nay.
PV: Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông và chúc cho ngành vật liệu xây dựng sẽ vượt qua khó khăn, phát triển bền vững!
Tác giả: Ngọc Nữ (thực hiện)
Thiết kế: Mai Ninh