Sau “ba thập kỷ mất mát”, Nhật Bản đang nỗ lực thúc đẩy chính sách công nghiệp trị giá hàng tỷ USD, tăng động lực cho nền kinh tế và giành lại vị thế là nhà đổi mới công nghệ hàng đầu toàn cầu.
Các công ty Mỹ và Nhật Bản hợp tác sản xuất chip tích hợp AI vào nhiều loại sản phẩm từ robot đến ô tô. Ảnh minh họa: business-standard
Theo báo Japan Times số ra mới đây, thành công ấn tượng của Trung Quốc trong việc sử dụng chính sách công nghiệp để mở rộng nền kinh tế và tài trợ cho sản xuất xanh đã góp phần gây ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia, nhằm phát triển và bảo vệ doanh nghiệp tại quê nhà.
Đã 40 năm trôi qua kể từ khi xuất hiện những lo lắng về tiềm năng có một cường quốc châu Á đang trỗi dậy, thúc đẩy sự can thiệp của chính phủ vào các nền kinh tế thị trường tự do lớn nhất phương Tây. Nhưng vào thời điểm đó, nguồn gốc của sự lo lắng là Nhật Bản chứ không phải Trung Quốc như ngày nay.
Trong một cuộc khảo sát năm 1990, gần 2/3 người Mỹ cho biết đầu tư của Nhật Bản vào nước này gây ra mối đe dọa đến nền độc lập kinh tế quốc gia. Sự lo lắng về các công ty Nhật Bản lên đến đỉnh điểm, ngay khi xuất hiện dấu hiệu suy thoái sau sự sụp đổ của bong bóng bất động sản và thị trường chứng khoán Nhật Bản năm 1991.
Hiện nay, sau “ba thập kỷ mất mát”, Tokyo đang thực hiện chính sách công nghiệp trị giá hàng tỷ USD để tái khởi động nền kinh tế trì trệ và giành lại vị thế là nhà đổi mới công nghệ. Lần này, Nhật Bản đang hợp tác với các công ty công nghệ hàng đầu tại Mỹ và các quốc gia khác - một cách tiếp cận mang tính hợp tác mà nhiều thập kỷ trước đây là điều không thể tưởng tượng được.
Nhưng ngay cả khi Tokyo đang theo đuổi các chính sách ít hướng nội hơn, “cơn bão” chính trị xoay quanh việc Nhà Trắng chặn thỏa thuận mua lại US Steel của công ty Nhật Bản Nippon Steel cho thấy Mỹ đang ngày càng có động thái bảo vệ các ngành công nghiệp quan trọng nội địa thoát khỏi ảnh hưởng của nước ngoài.
Trọng tâm chính sách công nghiệp của Tokyo hiện nay là các hình thức công nghệ tiên tiến, từ pin điện đến năng lượng Mặt trời, nhưng ưu tiên hàng đầu là giành lại thị phần lớn hơn trong ngành công nghiệp bán dẫn (chip) toàn cầu, ngành công nghiệp mũi nhọn mà Chính phủ Nhật Bản đã dành hơn 27 tỷ USD trong ba năm qua.
Ông Akira Amari - một quan chức cấp cao trong đảng cầm quyền Nhật Bản, cho biết: “Trong tương lai, thế giới sẽ chia thành hai nhóm: nhóm có thể cung cấp chất bán dẫn và nhóm chỉ tiếp nhận chúng. Đó là những người chiến thắng và kẻ thua cuộc”. Dựa trên những bài học kinh nghiệm trong vài thập kỷ qua, Nhật Bản đang thử nghiệm một chiến lược mới liên quan đến chip, cựu Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) Amari nói: “Hiện tại, chúng tôi đang hợp tác với các đối tác quốc tế ngay từ đầu”.
Mặc dù các quốc gia khác đang chi hàng trăm tỷ USD để giành lợi thế, nhưng nỗ lực của Nhật Bản vẫn nổi bật, vì lịch sử sử dụng chính sách công nghiệp để phát triển nhanh chóng sau Thế chiến thứ II. Theo nhà kinh tế Alessio Terzi tại Ủy ban châu Âu: “Nhật Bản không phải bắt đầu từ con số 0… Đây đã là điều khiến Nhật Bản khác biệt so với các quốc gia khác”.
Điểm nhấn của sự thúc đẩy công nghiệp mới của Nhật Bản đang hình thành tại một công trường xây dựng một năm tuổi ở Hokkaido, hòn đảo cực Bắc của nước này. Khu vực này nổi tiếng hơn với hoạt động trượt tuyết vào mùa Đông, thảm hoa tươi tốt vào mùa Hè và suối nước nóng núi lửa. Bên kia đồng cỏ rộng mở và không xa sân bay Chitose là hình ảnh phác thảo sơ bộ về nhà máy bán dẫn mới của Rapidus Corp., vẫn được bao quanh bởi bộ khung giàn giáo bạc rộng lớn.
Nhà máy - được tài trợ một phần bởi hàng tỷ USD tiền ngân sách, đang được phát triển thông qua sự hợp tác bất thường giữa Rapidus, một công ty khởi nghiệp sản xuất chip của Nhật Bản và công ty công nghệ Mỹ IBM. Nhà máy sẽ sản xuất chip 2 nanomet, một công nghệ mà IBM tiên phong tại phòng thí nghiệm của mình ở Albany, New York.
Ý tưởng hợp tác này được hình thành vào mùa Hè năm 2020 thông qua cuộc gọi điện thoại tới Chủ tịch Rapidus từ một người bạn là ông John E. Kelly III - một Giám đốc điều hành lâu năm tại IBM.
Nhật Bản từng là nhà sản xuất chất bán dẫn hàng đầu thế giới. Nước này đã chứng kiến thị phần toàn cầu của mình giảm từ hơn 50% vào những năm 1980 xuống còn dưới 10% hiện nay. Nếu không hành động, vị Chủ tịch của Rapidus cho rằng Nhật Bản sẽ ngày càng tụt hậu về công nghệ.
Tình trạng thiếu hụt mọi thứ do đại dịch gây ra, từ chip máy tính đến tương ớt sriracha, rồi đến chi phí năng lượng tăng vọt do xung đột Nga - Ukraine đã khiến Nhật Bản và nhiều quốc gia khác trên thế giới chú ý đến tầm quan trọng của chuỗi cung ứng an toàn và bền vững.
Vào năm 2020, Nhật Bản đã bổ sung thêm các khoản trợ cấp mới nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong nước sản xuất các sản phẩm thiết yếu như chất bán dẫn, tua-bin gió, ống tiêm vắc-xin và găng tay cao su... chuyển hoạt động về nước hoặc sang các nước lân cận. Trong khi đó, căng thẳng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc càng làm suy yếu niềm tin vào trật tự quốc tế hợp tác được xây dựng dựa trên các quy tắc chung và thương mại mở.
Năm 2021, METI đã đưa ra chính sách công nghiệp mới quyết liệt hơn. Một lý do chính khiến Nhật Bản trì trệ trong nhiều năm, theo kết luận của Ủy ban kế hoạch mới, là cách tiếp cận chống quản lý quá mức, không can thiệp vào nền kinh tế của chính phủ. Nghiên cứu của METI cũng xem xét những gì các đối thủ cạnh tranh lớn như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc đang làm, sau đó phân tích các chính sách công nghiệp và kinh tế trước đây của Nhật Bản.
Ủy ban kế hoạch mới cho biết, “hướng đi mới” sẽ không lặp lại chiến lược trước đây là thúc đẩy và bảo vệ một số lĩnh vực nhất định. Thay vào đó, METI sẽ sử dụng toàn bộ bộ công cụ quản lý của chính phủ để theo đuổi “các dự án hướng đến sứ mệnh” như thúc đẩy công nghệ xanh và tiết kiệm năng lượng. Ủy ban cho biết cam kết của chính phủ sẽ “trên quy mô lớn, dài hạn và được lập kế hoạch tốt”.
Những ý tưởng trên phản ánh phần lớn suy nghĩ mới nhất của các nhà kinh tế học hàng đầu như hai chuyên gia Mariana Mazzucato và Dani Rodrik, những người đã tán thành các chính sách công nghiệp nhằm giải quyết các vấn đề như quá trình chuyển đổi xanh và số hóa.
Nhật Bản đã thử một cách tiếp cận hoàn toàn trong nước để phục hồi ngành công nghiệp chip suy yếu của mình cách đây 25 năm. Nước này đã sáp nhập một số doanh nghiệp sản xuất chip hàng đầu thành một thực thể, có tên gọi là Elpida Memory, và sau đó cung cấp khoản đầu tư công và các khoản vay cho tổ hợp này. Đáng tiếc, năm 2012, Elpida nộp đơn xin phá sản, đây là vụ phá sản lớn nhất của một nhà sản xuất Nhật Bản kể từ Thế chiến thứ II.
Theo cựu Bộ trưởng Amari, ngành công nghiệp bán dẫn ngày nay thực sự mang tính toàn cầu: Các công ty của Vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) sản xuất chip thiết kế tại Mỹ, sử dụng thiết bị từ Hà Lan và Nhật Bản. Rapidus sẽ nhận được công nghệ từ IBM cho các chất bán dẫn hiệu suất cao và đã cử hàng trăm kỹ sư đến cơ sở nghiên cứu của IBM ở Albany để giúp phát triển công nghệ sản xuất hàng loạt chip. Ngoài ra, Nhật Bản đã lôi kéo nhà sản xuất bán dẫn Đài Loan TSMC - một "gã khổng lồ" sản xuất chip toàn cầu - xây dựng nhà máy ở thị trấn phía Nam Kikuyo, tỉnh Kumamoto, với sự góp mặt đầu tư từ các công ty trong nước bao gồm Sony. Nhà máy của TSMC, được Chính phủ Nhật Bản tài trợ một phần, đã đi vào hoạt động từ tháng 2/2024.
Một hội nghị tại Trung tâm Nghiên cứu Chính sách châu Á thuộc Viện Brookings (Mỹ) đã lưu ý rằng: “Nếu không có sự can thiệp của chính phủ, nhiều dự án hiện đang được triển khai tại Nhật Bản có thể sẽ không thành hiện thực”.
Nhưng vẫn có những ý kiến hoài nghi ở Nhật Bản. Nhà máy Rapidus đã bị chỉ trích vì thời hạn đầy tham vọng và không thu hút được nhiều đầu tư từ khu vực tư nhân. Mặc dù vậy, cựu Bộ trưởng Amari cho rằng không có giải pháp thay thế nào khác: “Nếu không tham gia vào ngành bán dẫn ngay bây giờ, bạn sẽ ở nhóm thua cuộc ngay từ đầu. Nhật Bản sẽ không bao giờ lựa chọn điều đó”.
Xuân Giao-Link gốc