Thời gian qua, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam đã có nhiều thành công trong hoạt động kinh doanh, tuy nhiên còn tiềm ấn nhiều nguy cơ rủi ro tài chính cao trong cơ cấu nguồn vốn, sử dụng đòn bầy tài chính, khả năng cân đối dòng tiền đảm bảo khả năng thanh toán, nợ phải thu khó đòi… Việc đưa ra những quyết định quản trị rủi ro tài chính để giảm thiểu những tổn thất tiềm ẩn là cần thiết, có ý nghĩa thiết thực đối với các doanh nghiệp xây dựng, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thế giới, trong nước và khu vực còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn.
Đặt vấn đề
Sự phát triển ngành Xây dựng nói chung, doanh nghiệp xây dựng (DNXD) nói riêng phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, giá cả các loại tài nguyên, lạm phát và lãi suất cho vay. Với đặc thù của ngành Xây dựng là các công trình thi công xây dựng thường có quy mô lớn, thường xuyên phát sinh nhu cầu tín dụng, do đó những biến động về lãi suất sẽ ảnh hưởng lớn đến DN, rủi ro lãi suất luôn hiện hữu đối với các DN.
Bên cạnh đó, các DNXD còn đối diện với rủi ro tín dụng thương mại do thời gian quyết toán, thu hồi vốn các công trình xây dựng đã hoàn thành thường diễn ra chậm. Khi xảy ra rủi ro tài chính (RRTC), mục tiêu tài chính của DN bị ảnh hưởng, DN phải chịu những tổn thất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh theo đó cũng bị suy giảm. Từ thực tế trên, nghiên cứu phân tích những ảnh hưởng của RRTC đối với hiệu quả kinh doanh của DNXD, từ đó đề xuất biện pháp quản trị RRTC hiệu quả cho các DNXD hiện nay.
Khái quát về rủi ro tài chính
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về RRTC. Theo Steven Li (2003), rủi ro liên quan đến sự không chắc chắn của các yếu tố như lãi suất, tỷ giá, giá cổ phiếu và giá cả hàng hóa gọi là RRTC. Ann-Katrin Napp (2011), cho rằng, RRTC có thể do những thay đổi trên thị trường tài chính như lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá cả hàng hóa.
Theo tác giả Nguyễn Trọng Cơ, Nghiêm Thị Thà (2013), RRTC là biến cố rủi ro xuất hiện khi DN huy động nợ để thực hiện các hoạt động nhưng hiệu quả sử dụng không đạt được như dự tính dẫn đến suy giảm tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu của DN, tạo nên mầm mống gây ra sự phá sản. Như vậy, RRTC được hiểu là những rủi ro phát sinh do sự biến động của môi trường bên ngoài và những rủi ro phát sinh từ việc lựa chọn và thực hiện các quyết định tài chính trong DN, làm ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và khả năng thanh toán của DN.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới RRTC. Về khách quan, có thể là sự thay đổi các chính sách tài chính, chính sách tiền tệ… của Nhà nước, trong khi các DN không nghiên cứu cập nhật thông tin, nắm bắt kịp thời. Về chủ quan, RRTC phát sinh có thể do chính sách huy động vốn của DN chưa phù hợp; việc sử dụng vốn vay quá lớn trong cơ cấu nguồn vốn của DN; do trình độ, năng lực quản trị dòng tiền; do cơ cấu tài sản và cơ cấu chi phí hoạt động của DN và tính thời vụ trong kinh doanh của DN... Bên cạnh đó, còn có những rủi ro phát sinh từ nội bộ DN. Hầu hết các quyết định tài chính của DN thường mang tính chủ quan, dựa vào kinh nghiệm của người lãnh đạo là chủ yếu.
Các loại RRTC chủ yếu mà DN gặp phải bao gồm:
Rủi ro tỷ giá là sự thay đổi tỷ giá ngoại tệ mà DN không thể dự báo trước làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Rủi ro này có thể phát sinh trong nhiều hoạt động khác nhau của DN như: hoạt động xuất nhập khẩu, tín dụng, đầu tư.
Rủi ro lãi suất là loại rủi ro do sự biến động của lãi suất gây ra, phát sinh trong quan hệ tín dụng của DN với các ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh, hầu như tất cả các DN đều phải sử dụng vốn vay. Tùy thuộc vào lượng tiền vay của DN, mức độ tiêu cực của rủi ro lãi suất cũng sẽ khác nhau. Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính của DN cũng tiềm ẩn rủi ro lãi suất lớn.
Rủi ro biến động giá là rủi ro xảy ra khi giá cả hàng hóa biến động, ảnh hưởng đến cả DN và người tiêu dùng… Đối với đa số DN sản xuất, sản phẩm đầu ra thường được ký hợp đồng theo đơn hàng trước khi sản xuất, khi giá cả biến động, nguyên vật liệu đầu vào tăng, nhưng giá bán sản phẩm đã cố định từ trước, nguy cơ thua lỗ là rất lớn.
Rủi ro tín dụng thương mại là rủi ro phát sinh trong quan hệ mua bán chịu hàng hóa dịch vụ của nhau, là loại rủi ro do khách hàng không còn khả năng chi trả. Rủi ro tín dụng thương mại có thể do đối tác không thực hiện đầy đủ trách nhiệm pháp lý, như: phải thanh toán tiền mua hàng nhưng lại không thanh toán đúng hạn hoặc không thanh toán đầy đủ, hoặc thậm chí từ chối thanh toán vì nhiều lý do.
Rủi ro đòn bẩy tài chính là rủi ro phát sinh do DN sử dụng nguồn vốn nợ để tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh hay nhu cầu mở rộng đầu tư, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, các DN có thể tiếp cận vốn vay nợ như: phát hành trái phiếu hoặc vay từ ngân hàng. Khi DN kinh doanh thuận lợi thì sử dụng đòn bẩy tài chính có tác dụng làm gia tăng lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) lên nhiều lần. Tuy nhiên, nếu DN không đạt được mức lợi nhuận như kỳ vọng thì chi phí lãi vay và nợ gốc trở thành gánh nặng.
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro mà các tài sản do DN sở hữu không dễ dàng chuyển thành tiền khi cần thiết gây khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ đến hạn. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vỡ nợ của các DN ngay cả khi vẫn tạo ra lợi nhuận đứng từ góc độ kế toán. Ở nước ta, các DN thường huy động vốn từ các nguồn vay ngắn hạn với tính linh động cao, chi phí sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên, lại tiềm ẩn rủi ro thanh khoán rất lớn cho các DN khi không quản lý dòng tiền tốt, tài sản có tinh thanh khoán thấp, khó tìm được các nguồn vốn khác khi thị trường rơi vào tình trạng bất ổn định.
Ảnh hưởng tiêu cực từ rủi ro tài chính đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng
Đặc điểm của các doanh nghiệp xây dựng
Đặc điểm của ngành nghề: Các DNXD hoạt động trong một ngành nghề khá đặc thù, với địa điểm sản xuất không cố định. Mỗi công trình xây dựng được thực hiện ở một địa điểm khác nhau, không tương đồng về về môi trường kinh tế, xã hội gây ảnh hưởng đến RRTC của DN. Việc thường xuyên di chuyển máy móc, thiết bị sẽ phát sinh các chi phí vận chuyển, điều động, cũng như các chi phí khác về tháo dỡ lán trại ở địa điểm cũ, xây dựng lán trại ở địa điểm mới, từ đó, gây nên nhiều khó khăn trong công tác quản trị RRTC theo từng dự án của DN. Chu kỳ thi công thường kéo dài gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại gồm nhiều công việc khác nhau, sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau nên dễ có sự tăng thêm về chi phí xây dựng so với dự toán ban đầu. Việc phải sử dụng nhiều vốn vay làm gia tăng rủi ro lãi suất, rủi ro đòn bẩy tài chính của các DN. Hoạt động xây dựng chịu ảnh hưởng lớn bởi thời tiết, khí hậu các vùng miền, nơi thực hiện các công trình xây dựng; điều kiện làm việc nặng nhọc.
Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi sẽ ảnh hưởng lớn đến thời gian và chất lượng thi công, lúc này có thể phát sinh thêm nhiều chi phí không thể lường hết như chi phí ngừng sản xuất, chi phí phá đi làm lại.... Điều đó dẫn đến, các DN luôn đối mặt với rủi ro biến động giá nguyên vật liệu. Kỹ thuật thi công phức tạp, phải sử dụng thiết bị kỹ thuật hiện đại, giá trị lớn. Điều này làm cho nhu cầu vốn của DNXD luôn ở mức cao. Nếu không có phương án thích hợp trong việc đầu tư mua máy móc thiệt bị hiện đại hoặc đi thuê thì ảnh hưởng lớn đến quản trị RRTC của DN. Bên cạnh đó, nếu mua sắm máy móc thiết bị bằng nguồn vốn đi vay thì DN còn đối mặt với rủi ro lãi suất.
Đặc điểm sản phẩm: Sản phẩm xây dựng là các công trình, vật kiến trúc có quy mô lớn, tính chất phức tạp, được xây dựng theo thiết kế và dự toán riêng. Mỗi công trình đều có yêu cầu thiết kế riêng và yêu cầu riêng về công nghệ, tiện nghi, mỹ quan và độ an toàn. Khối lượng, chất lượng và sản phẩm xây dựng, xây lắp có thể giống nhau về hình thức nhưng về kết cấu, về quy phạm thì không thể giống nhau.
Các công trình hay dự án đầu tư đều bị chi phối bởi các điều kiện, đặc điểm tự nhiên và yêu cầu cụ thể khác nhau nên chi phí cũng khác nhau. Đặc điểm này ảnh hưởng trực tiếp đến các loại RRTC, từ đó ảnh hưởng đến công tác nhận diện, đo lường, kiểm soát và tài trợ RRTC của. Sản phẩm xây dựng có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quả hoạt động của các ngành khác. do đặc điểm này, các DNXD phải đảm bảo chất lượng sản phẩm ngay từ các khâu đầu của quá trình thi công.
Từ đó, công tác quản trị RRTC cần chú trọng ngay từ khâu chuẩn bị đầu tư xuyên suốt đến khâu thanh quyết toán vốn đầu tư để nhận diện RRTC có thể gặp phải. Việc thanh toán tiền công xây dựng thường chỉ được chủ đầu tư ứng trước một phần hoặc thanh toán theo từng hạng mục, đôi khi đến lúc công trình hoàn thành mói thanh toán, thậm chí có những khách hàng do khó khăn về tài chính nên việc thanh toán gặp nhiều khó khăn, nợ đọng kéo dài. Đặc điểm này là nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng thương mại của các DNXD khi khách hàng không thanh toán đứng tiến độ. Khi DN cần lượng vốn lớn mà huy động bằng vốn vay thì phải đối mặt thêm vói rủi ro lãi suất, rủi ro đòn bẩy tài chính.
Ảnh hưởng của rủi ro tài chính đối với DN xây dựng
Ảnh hưởng đến chi phí của DN: Ảnh hưởng tiêu cực này thể hiện ở 2 khía cạnh cơ bản: chi phí sử dụng vốn, chi phí kinh doanh. Đối với chi phí sử dụng vốn, nếu DN có RRTC cao, các nhả tài trợ hay đầu tư vốn vào DN bao giờ cũng đòi phần bù rủi ro đủ lớn ngoài chi phí sử dụng vốn để bù đắp các rủi ro nếu họ gặp phải. Điều này sẽ làm tăng chi phí sử dụng vốn kinh doanh của DN. Đối với chi phí kinh doanh, khi rủi ro xảy ra sẽ dẫn đến với gia tăng các khoản chi phí kinh doanh của DN. Những khoản chi phí phát sinh do RRTC như: chi phí tăng thêm từ giá cả nguyên vật liệu, lãi vay, từ chênh lệch tỷ giá hối đoái trong kinh doanh...
Những chi phí này đều ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh doanh, làm gia tăng giá thành sản phẩm và dịch vụ và từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận và khả năng cạnh tranh. Ngoài ra, khi lâm vào tình trạng suy thoái DN còn đối mặt với các chi phí gián tiếp như: mất thị trường, mất khách hàng, chảy máu chất xám, mất thương hiệu... làm cho giá trị DN bị giảm sút.
Ảnh hưởng đến lợi nhuận của DN: Ảnh hưởng của RRTC đến lợi nhuận của DNXD có thể xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Khi có những thay đổi trong giá cả hàng hóa, lãi suất và tỷ giá sẽ làm thay đổi giá trị một khoản tiền thu được hoặc các khoản chi phí. Ngoài ra, tác động của đòn bẩy kinh doanh, chính sách tín dụng thương mại cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của DNXD. Rủi ro tỷ giá gây ra các loại tổn thất lớn như: tổn thất giao dịch, tổn thất kinh tế, tổn thất trước giao dịch, tổn thất chuyển đổi… Lãi suất biến động ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa DN với ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Sự thay đổi về lãi suất sẽ kéo theo sự tăng lên (hoặc giảm đi) của lãi vay phải trả. Biến động về lãi suất còn kéo theo những biến động thị trường làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của DN. Nếu lãi suất tăng cao làm cho người tiêu dùng phân chia thu nhập nhiều hơn dành cho tiết kiệm, hạn chế chi tiêu, từ đó ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của DN. Sự thay đổi của giá cả hàng hóa ảnh hưởng lớn đến chi phí của DN. Đối với nguyên vật liệu đầu vào, giá cả tăng lên làm tăng gánh nặng chi phí sản xuất cho DN. Đối với sản phẩm đầu ra, mặt bằng chung giá cả giảm làm ảnh hưởng tới doanh thu của DN.
Tác động của RRTC đến lợi nhuận DNXD còn có thể xem xét từ góc độ tác động của đòn bẩy kinh doanh, đòn bẩy tài chính đến lợi nhuận. Nếu DN có đòn bẩy kinh doanh, đòn bẩy tài chính cao nhưng quản lý sử dụng vốn kinh doanh, chi phí kinh doanh kém hiệu quả sẽ không tận dụng được tác động tích cực của đòn bẩy kinh doanh, đòn bẩy tài chính trong việc gia tăng lọi nhuận, ngược lại làm cho lợi nhuận giảm sút.
RRTC cũng tác động đến lợi nhuận của DNXD từ góc độ rủi ro tín dụng thương mại, rủi ro thanh khoản. Nếu khách hàng chiếm dụng vốn quá hạn từ bán chịu hàng hóa sẽ gây nên tình trạng vốn luân chuyển chậm, thiếu vốn kinh doanh, không bảo toàn được vốn, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn... Điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của DN.
Ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh: Tác động của RRTC đến chi phí kinh doanh, lợi nhuận suy cho cùng là tác động tới hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các DNXD. Hiệu quả kinh doanh của DN thể hiện sự so sánh giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó trong kinh doanh. Chi phí sử dụng càng nhỏ, kết quả lợi nhuận thu được càng lớn thì hiệu quả càng cao.
DN kinh doanh có hiệu quả cao thì tình hình tài chính DN sẽ càng lành mạnh, năng lực cạnh tranh của DN sẽ càng cao. Ngoài ra, sức cạnh tranh của DN tập trung ở khả năng quyết định giá cả của DN so với đối thủ trên thị trường. Hoạt động trong điều kiện có rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro giá cả..., DN phải đối phó với những tổn thất này bằng cách nâng giá bán. Điều này làm cho giá bán của DN kém hấp dẫn, khiến khả năng cạnh tranh của DN giảm sút.
Ảnh hưởng đến cân đối dòng tiền và khả năng thanh toán: Trên thực tế, các DNXD có thể bị tình trạng mất cân đối về dòng tiền, tức là tại những thời điểm nhất định có thể xảy ra hiện tượng luồng tiền vào DN nhỏ hơn luồng tiền ra khỏi DN. Sự mất cân đối dòng tiền của DNXD có thể chia thành: mất cân đối tạm thời, mất cân đối dài hạn.. Nếu DN chỉ mất cân đối tạm thời về dòng tiền thì có thể tìm được nguồn cân đối bằng nhiều biện pháp và hậu quả của nó không lớn. Nếu DN bị mất cân đối dài hạn thì hậu quả xảy ra sẽ rất lớn. Mất cân đối dòng tiền dài hạn có thể do: chi phí cố định trong tổng chi phí quá lớn, vốn lưu động tự có quá ít, nợ khó đòi lớn, doanh thu chưa đủ bù đắp các khoản chi phí thường xuyên... làm cho DN mất khả năng thanh khoản. Khi RRTC tăng cao do biến động về giá cả hàng hóa, tỷ giá, lãi suất thì nó sẽ tác động lớn đến dòng tiền của DN, làm mất cân đối dòng tiền trong DN. Do tác động dây chuyền giữa các DN khiến cho nợ phải thu tăng, phát sinh nợ phải thu khó đòi. Nếu DN không có biện pháp hữu hiệu xử lý mất cân đối dòng tiền tạm thời thì rất dễ bị chuyển sang tình trạng mất cân đối dài hạn.
Ảnh hưởng đến giá trị DN: RRTC làm thay đổi dòng tiền kỳ vọng của DN, từ đó làm thay đổi giá trị DN. RRTC gia tăng dẫn đến nhà đầu tư đòi hỏi tỷ suất sinh lời cao để bù đắp, điều đó ảnh hưởng đến giá trị DN. RRTC theo chiều hướng xấu sẽ kéo theo sự sụt giảm dòng tiền mà DN nhận được trong tương lai, trong khi đó do rủi ro gia tăng nên tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư sẽ lớn để bù đắp, từ đó dẫn tới sự sụt giảm của giá trị DN. Trong trường hợp rủi ro đòn bẩy tài chính xảy ra, DN không những không tận dụng được lá chắn thuế để làm tăng giá trị DN mà còn rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính.
Một số khuyến nghị
Nhận thức rõ những ảnh hưởng này, có biện pháp quản trị RRTC hiệu quả là vấn đề cấp thiết hiện nay. Bài viết khuyến nghị một số giải pháp để giảm thiểu các rủi ro tài chính đến kết quả kinh doanh của các DNXD gồm:
Thứ nhất, nâng cao khả năng nhận diện RRTC cho các DNXD. Hiện nay, các DNXD ở Việt Nam chủ yếu sử dụng phương pháp nhận diện RRTC thông qua các số liệu trong quá khứ để nhận diện các rủi ro có thể gặp phải trong tương lai. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn còn rất nhiều hạn chế. Để đảm bảo nhận diện RRTC đầy đủ, các DNXD cần có quy trình nhận diện RRTC, trên cơ sở phân tích quá trình hoạt động kinh doanh và môi trường hoạt động.
Quy trình nhận diện RRTC gồm các bước: Phát hiện rủi ro, các doanh có thể sử dụng các công cụ như: bảng hỏi, phiếu điều tra, dữ liệu quá khứ… Đồng thời, cần thu thập tài liệu nội bộ cũng như tài liệu bên ngoài DN để phát hiện rủi ro có thể gặp phải. Phân tích rủi ro, gồm các công việc: xác định xác suất xảy ra rủi ro, ảnh hưởng của rủi ro, thời điểm xảy ra, phân loại rủi ro. DN có thể ước lượng thời điểm rủi ro xuất hiện theo 4 mức sau: Ngay lập tức; Rất gần; Sắp xảy ra; Rủi ro sẽ xuất hiện trong tương lai xa hoặc chưa định được. Xác định rủi ro, là sắp xếp mức độ ưu tiên xử lý rủi ro của DN theo thời điểm xảy ra rủi ro và xác suất xảy ra rủi ro. Ngoài ra, có thể kết hợp sử dụng các dịch vụ tư vấn của các công ty chuyên nghiệp, thường là các DN kiểm toán, tư vấn tài chính, như: PwC, KPMG, Deloitte, E & Y, RSM Global, CAF Việt Nam, DFK Việt Nam... Từ sự tư vấn này, các DNXD có thể sử dụng phương pháp Quản lý rủi ro của Công ty RSM Việt Nam dựa trên Tiêu chuẩn Quản lý rủi ro (ISO 31000) một cách linh động tùy theo nhu cầu của DN.
Thứ hai, sử dụng linh hoạt các phương pháp đo lường RRTC trong các DNXD. Để đo lường RRTC, các DNXD có thể sử dụng phương pháp VaR (Value at Risk). VaR là một phương pháp đánh giá mức rủi ro của một danh mục đầu tư theo 2 tiêu chuẩn như giá trị của danh mục đầu tư và khả năng chịu đựng rủi ro của nhà đầu tư. Có các phương pháp thông dụng nhất để tính VaR: Phân tích quá khứ, Phương sai-hiệp phương sai, Monte Carlo… Mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng, các DN cần có sự nghiên cứu và vận dụng cho phù hợp. Khi chọn một phương pháp tính VaR, các DNXD phải cân nhắc những tiêu chuẩn nhất định như chi phí thực thi, tính phức tạp cũng như tính linh hoạt của mô hình, cách tổng hợp và khai thác dữ liệu.
Bên cạnh đó, các DNXD có thể sử dụng các phương pháp đo lường RRTC bằng mô hình dự báo khả năng phá sản, như: mô hình Altman Z-Score, mô hình Fulmer H-Score. Theo tác giả Phạm Thị Tường Vân (2016), mặc dù còn một số hạn chế từ nội tại, nhưng mô hình Z-score vẫn chứng tỏ được tính ưu việt trong phân tích, đánh giá hoạt động của DN, phân loại vùng rủi ro, xếp hạng tín dụng, đánh giá mức độ phá sản của DN và có thể áp dụng cho một DN hoặc số lượng DN ở quy mô phân tích lớn hơn, cho DN phân theo nhiều ngành nghề, lĩnh vực cũng như theo quy mô tổng nguồn vốn khác nhau. Tác giả Liêu Minh Lý khẳng định, việc áp dụng H-score là hoàn toàn có cơ sở đối với DN phi tài chính Việt Nam.
Thứ ba, các DNXD cần chủ động lập kế hoạch tài chính một cách khoa học, cụ thể. Để kiểm soát RRTC có hiệu quả thì một trong những giải pháp là phải lập được kế hoạch tài chính gắn với hoạt động kinh doanh của DN. Theo đó, các DNXD phải xây dựng được các kịch bản ứng phó với những thay đổi có thể xảy ra, chủ động những phương án và công cụ phòng ngừa, dự kiến các biện pháp chủ động để xử lý rủi ro khi nó xảy ra. Nội dung của một bản kế hoạch tài chính phải đảm bảo: dự kiến nhu cầu tài chính, dự kiến được kết quả kinh doanh, có đầy đủ các biện pháp để đối phó với các tình huống xảy ra. Với đặc thù riêng của các DNXD, tất cả các nội dung liên quan đến RRTC của DN phải được tính toán trong quá trình lập kế hoạch tài chính như: cơ cấu vốn mục tiêu, chính sách bán chịu đối với khách hàng, biến động giá nguyên vật liệu, biến động tỷ giá và lãi suất. Dù kế hoạch tài chính đã được lập ra ngắn hạn hay dài hạn, DN cần theo dõi và giám sát dòng tiền có đang đi đúng kế hoạch hay không và trường hợp phát sinh sẽ ứng biến ra sao. Các báo cáo về danh mục đầu tư, cập nhật bảo hiểm, lựa chọn đầu tư và các bản báo cáo về biến động thị trường là những tài liệu cần được theo dõi cẩn thận nhằm dự đoán và kiểm soát các RRTC có thể xảy ra đối với DN.
Thứ tư, hoàn thiện mô hình tổ chức cho công tác quản trị RRTC. Một trong những mô hình được các chuyên gia tài chính đánh giá cao và sử dụng nhiều nhất trong thời gian gần đây là: “3 vòng phòng thủ” (three lines of deitence assurance model), giúp toàn bộ DN phải hiểu và tham gia sâu vào quá trình quản trị RRTC. Tổ chức 3 vòng phòng thủ quản trị RRTC bao gồm: i) Đánh giá, khoanh vùng, đo lường, giảm thiểu rủi ro ở cấp quản trị vận hành. Các phòng ban và chức năng chính trong chuỗi giá trị (value Chain) như kinh doanh, tiếp thị, sản xuất, vận hành tự mình xác định, đánh giá, ngăn ngừa và báo cáo các rủi ro phát sinh trong hoạt động của DN; ii) Xây dựng các kênh liên lạc và đánh giá bên trong nội bộ công ty bao gồm các phòng ban: Kiểm soát tài chính, an ninh, quản trị rủi ro, quản lý chất lượng, điều tra, pháp chế. Đây là khối sẽ độc lập đánh giá và kiểm soát tính hiệu quả của của hệ thống ở tuyến phòng thủ thứ nhất. Tuyến này sẽ quản trị rủi ro thông qua việc đánh giá khẩu vị rủi ro, xây dựng và áp dụng các quy trình quản trị rủi ro trong nội bộ DN; iii) Kiểm toán nội bộ đảm bảo hiệu quả của quản trị kinh doanh, quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ trong DN. Đây là bộ phận trực thuộc ban kiểm soát và không thuộc ban điều hành nên việc đánh giá 2 tuyến phòng thủ trước và các rủi ro có thể xảy ra được khách quan và độc lập. Việc xây dựng các vòng phòng thủ nhằm ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa những rủi ro đã, đang và sẽ xảy ra trong bộ máy kinh doanh của DN. Dựa vào tần suất và cường độ xảy ra của rủi ro, DN có thể đánh giá một cách chiến lược khi cần xây dựng hệ thống quản trị rủi ro.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản trị dòng tiền của DNXD. Các DNXD cần nâng cao các kiến thức về quản lý tài chính cho cán bộ tài chính bằng cách cử hoặc tạo điều kiện các các bộ quản lý tài chính tham gia các khoá học ngắn, dài hạn để nâng cao trình độ quản lý và tài chính DN hiện đại. Thêm vào đó cũng cần công nghệ hoá đội ngũ nhân viên tài chính. Thường xuyên cử họ đi dự các hội thảo nhằm học hỏi và cập nhập những mô hình quản trị tài chính mới áp dụng vào DN. Đồng thời, cần tối ưu hóa quy trình quản lý hàng tồn kho để giải phóng dòng tiền. Nếu các DN giải quyết triệt để vấn đề này thì nguồn tiền sẽ không bị ứ đọng, thanh khoản của DN sẽ luôn ở hệ số an toàn. Bên cạnh đó, cần phải có các dự báo dòng tiền được cập nhật thường xuyên và liên tục để DN có thể kiểm soát, cân đối dòng tiền ra vào, từ đó đưa ra những chiến lược hoạt động tối ưu.